Lời Ngưởi Dịch: Nhân dịp Ba mươi tháng Tư /2024 sắp đến, chúng tôi post lại bài viết của Clark M. Clifford, bộ trưởng quốc phòng thời tổng thống Lyndon Johnson, đăng trên tạp chí Foreign Affairs tháng Sáu/1969, thời điểm đỉnh cao của cuộc chiến tranh Việt Nam. Bài viết này mô tả trung thực phần lớn dữ kiện hình thành cuộc chiến tranh từ đầu thập niên 1950s cho đến năm 1969. Nó cho thấy tổng thể cuộc chiến tranh và lý do chấm dứt cuộc chiến bắt đầu bằng hòa đàm Paris năm 1968. Điều quí giá của bài như đề tựa “Đánh Giá lại Việt Nam” cho thấy diễn tiến lịch sử của cuộc chiến cũng là diễn tiến lịch sử bản thân tác giả như một thành phần quan trọng trong cuộc chiến tranh. Bài viêt cũng mang ý nghĩa hồi ký vì mọi biến chuyển tư tưởng tác giả gắn liền với quá trình chuyển biến của cuộc chiến tranh. Những sự kiện lịch sử được kể ra còn là tiền đề số phận của một số người Việt Nam ngày đó tham dự hay liên quan ít nhiều vào cuộc chiến, để rồi trở thành bộ phận người Việt lưu vong chúng ta ngày hôm nay tại Hoa Kỳ và tại một số quốc gia khác trên thế giới. Bài viết có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn bản chất của chế độ miền Nam để điều chỉnh đúng đắn nhận thức khỏi những phán xét chủ quan, cảm tính hay phiến diện về lý do tại sao thua cuộc.

ĐÁNH GIÁ LẠI VIỆT NAM

Trường Hợp Lịch Sử của Một Người và Diễn Tiến Tư Tưởng của Ông ta Như Thế Nào?(1)


Clark M. Clifford
Foreign Affairs
July 1969
 
 
 

President Lyndon B. Johnson ký quyết định vịnh Bắc bộ, tháng Tám 1964

Wikipedia Commons

Việt Nam chắc chắn vẫn là vấn đề tối hậu mà đất nước chúng ta phải đối mặt. Mặc dù sự leo thang đã dừng lại, nhưng dường như chúng ta vẫn chưa tìm ra cách thoát khỏi khó khăn vô cùng phức tạp này. Sự tự tin của quá khứ đã trở thành sự thất vọng của hiện tại. Những dự đoán về sự tiến bộ và thành công quân sự, thường được rất nhiều người đưa ra, đã được chứng minh là hão huyền khi giao tranh và chết chóc tiếp tục diễn ra với tốc độ bi thảm. Trong nước chúng ta, cuộc đối thoại cấp thiết và tranh luận gay gắt hơn. Người dân ngày càng mất kiên nhẫn, và những câu hỏi liên quan đến chiến tranh và sự tham gia của chúng ta đang được nêu ra ngày càng gay gắt.

Nhiều cá nhân trong những năm qua đã tìm cách đóng góp phần nào vào việc tìm ra câu trả lời vốn rất khó nắm bắt này. Với niềm hy vọng tôi xin trình bày ở đây trường hợp lịch sử về thái độ của một người đối với Việt Nam, và các giai đoạn tư tưởng khác nhau mà ông ta đã trải qua khi ông từng bước đau đớn đi từ quan điểm này sang quan điểm khác, và tiếp tục như thế, cho đến khi ông đi đến quan niệm không thể lay chuyển có được ngày hôm nay.

Các quan điểm về Việt Nam ngày càng trở nên phân cực khi chiến tranh tiếp diễn mà không có tiến triển rõ ràng nào đối với chiến thắng quân sự truyền thống của Hoa Kỳ. Vẫn còn một số người khẳng định rằng chúng ta đã đúng khi can thiệp quân sự và, bởi vì chúng ta đúng, chúng ta không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục cho đến khi kẻ thù khuất phục và nhận thất bại. Tại một cực điểm khác, và với số lượng ngày càng tăng, có những người cho rằng tình hình không thỏa đáng hiện nay chứng tỏ rằng chính sách Việt Nam của chúng ta đã sai ngay từ đầu. Thậm chí có những người cho rằng các vấn đề của chúng ta ở Việt Nam gây nghi ngờ cho toàn bộ đường lối chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ kể từ Thế chiến II. Theo tôi thấy, cả hai trường phái đều có chung một quan niệm sai lầm. Cả hai đều coi chiến thắng quân sự là bài kiểm tra tối hậu về tính đúng đắn của việc chúng ta tham gia vào cuộc xung đột ở Đông Nam Á.

Tôi thấy mình không thể đồng ý với cả hai thái cực. Từ đầu chúng ta tham gia vào Việt Nam, tôi cho rằng nó dựa trên những cơ sở vững chắc và tiền đề không lay chuyển được, hoàn toàn phù hợp với lợi ích và trách nhiệm của chúng ta. Không có thay đổi nào về tính mẫu mực trong ý định của chúng ta đối với Việt Nam. Chúng ta đã can thiệp để giúp một quốc gia mới và nhỏ bé chống lại sự khuất phục của một quốc gia láng giềng—tình cờ quốc gia láng giềng đang được hỗ trợ bởi các nguồn lực của hai cường quốc cộng sản lớn nhất thế giới.

Tôi thấy không có lợi nhuận và không có mục đích trong bất kỳ cuộc tranh luận nào gây chia rẽ quốc gia về việc chúng ta đúng hay sai khi tham gia vào cuộc đấu tranh ở Việt Nam. Cuộc tranh luận như vậy vào thời điểm hiện tại khiến lu mờ vấn đề và che khuất nhu cầu cấp thiết về việc đánh giá rõ ràng và hợp lý về tình trạng khó khăn hiện tại của chúng ta và cách chúng ta có thể tự giải thoát khỏi nó. Chỉ có lịch sử mới có thể nói liệu sự hiện diện quân sự của chúng ta ở Đông Nam Á có được đảm bảo hay không. Chắc chắn những quyết định dẫn đến nó được dựa trên sự hiểu biết hợp lý về ba thập kỷ qua. Chúng ta đã thấy những hậu quả tai hại của việc đứng bên lề trong khi các quốc gia theo chủ nghĩa chuyên chế và bành trướng liên tiếp tấn công các nước láng giềng yếu hơn của họ và tích lũy sức mạnh quân sự khiến ngay cả các quốc gia mạnh hơn cũng phải lo lắng và bất an. Chúng ta đã thấy trong giai đoạn ngay sau Thế chiến thứ hai, sự thôi thúc dường như vô độ của Liên Xô nhằm bảo vệ các quốc gia vệ tinh ở ngoại vi phía tây của mình. Chúng ta đã chứng kiến ở chính châu Á nỗ lực bằng cuộc xâm lược công khai nhằm mở rộng quyền kiểm soát của cộng sản sang miền Nam độc lập của Bán đảo Triều Tiên. Chúng ta có lý do để cảm thấy rằng số phận được ngăn chặn ở Hàn Quốc thông qua lực lượng quân sự của Hoa Kỳ và Liên Hợp Quốc sẽ bắt kịp các quốc gia độc lập ở châu Á, mặc dù dưới hình thức có phần tinh vi hơn, nếu chúng ta đứng sang một bên trong khi Bắc Việt tài trợ cho hoạt động lật đổ và khủng bố ở Nam Việt Nam.

Tuy nhiên, sự thay đổi đã diễn ra trong suy nghĩ của tôi là do kết luận rằng tình hình thế giới đã thay đổi lớn lao, và sự can dự của Mỹ vào Việt Nam có thể và phải thay đổi theo. Các thành phần quan trọng của tình hình hiện nay bao gồm cách thức mà Nam Việt Nam và các nước láng giềng châu Á đã phản ứng lại mối đe dọa và sự can thiệp ồ ạt của chính chúng ta. Chúng cũng bao gồm những diễn biến nội bộ ở cả các quốc gia châu Á và những nơi khác, và những mối quan hệ thay đổi giữa các cường quốc thế giới.

Các quyết định mà đất nước chúng ta đang đối mặt ngày nay ở Việt Nam không nên được đưa ra dựa trên cách giải thích các sự kiện như chúng được nhìn nhận cách đây bốn, năm hay mười lăm năm, ngay cả khi có thể đạt được sự đồng thuận về những cách giải thích này thông qua thỏa hiệp. Thay vào đó, chúng phải dựa trên quan điểm hiện tại của chúng ta về nghĩa vụ với tư cách là một cường quốc thế giới; dựa trên khái niệm hiện tại của chúng ta về an ninh quốc gia; dựa trên kết luận của chúng ta về các cam kết như chúng đang tồn tại; trên mong muốn nhiệt thành của chúng ta để đóng góp cho hòa bình thế giới; và, hy vọng, khi chúng ta chấp nhận nguyên tắc hiểu biết lợi ích chính mình.

Nhưng đây là những hướng dẫn rộng rãi và tổng quát, chủ đề của nhiều cấu trúc và giải thích sai lầm. Nó cũng có nhược điểm hiển nhiên làm xa cách và vô cảm phi nhân.

Mục đích của bài viết này là trình bày với độc giả kinh nghiệm sâu sắc và riêng tư của một con người, với hy vọng rằng qua việc làm đó sẽ có một sự hiểu biết đơn giản và rõ ràng hơn về vị trí của chúng ta ở Việt Nam hôm nay, và những gì chúng ta phải làm. Tôi sẽ quay lại từ đầu và xác định, càng nhiều càng tốt, căn nguyên ý thức của tôi về vấn đề, những cơ hội mà tôi có được những sự kiện, và kết quả tiến triển của cái mà tôi sẽ thận trọng gọi là quá trình suy nghĩ của mình.

II

Mặc dù tôi đã phục vụ Tổng thống Truman tại Nhà Trắng từ tháng 5 năm 1945 cho đến tháng 2 năm 1950, nhưng tôi không nhớ mình có bao giờ phải tập trung vào Đông Nam Á hay chưa. Đông Dương, tên gọi lúc bấy giờ được mọi người biết đến, được chính phủ chúng ta coi là vấn đề của Pháp. Bộ Ngoại giao thỉnh thoảng đã nhắc nhở Tổng thống Truman thông qua những tuyên bố mà đối với tôi dường như chẳng khác gì những lời nhắc lại về thái độ lâu đời của Mỹ chống lại “chủ nghĩa thực dân”. Nếu bất kỳ điều gì trong số đó gây ra cuộc thảo luận rộng rãi tại Nhà Trắng, tôi không thể nhớ lại. Trong thập kỷ tiếp theo, tôi theo dõi các vấn đề đối ngoại và sự hỗn loạn ngày càng tăng của châu Á từ bên lề với tư cách là một công dân bình thường, ngày càng quan tâm nhưng không tham gia trực tiếp.

Vào mùa hè năm 1960, Thượng nghị sĩ John Kennedy đã mời tôi đóng vai trò là người lập kế hoạch chuyển tiếp của ông ấy, và sau đó là người liên lạc với Chính quyền Eisenhower trong khoảng thời gian từ cuộc bầu cử đến ngày 20 tháng 1 năm 1961. Trong số các vấn đề về chính sách đối ngoại mà tôi gặp phải ngay lập tức là một tình hình xấu đi ở Đông Nam Á. Thiếu tướng Wilton B. Persons, người mà Tổng thống Eisenhower đã chỉ định làm việc với tôi, đã giải thích mức độ nghiêm trọng của tình hình theo quan điểm của Chính quyền sắp mãn nhiệm. Tôi đề nghị với Tổng thống đắc cử rằng ông ấy nên nghe đích thân Tổng thống Eisenhower về chủ đề này. Ông ấy đồng ý, nên tướng Persons và tôi đã đặt Đông Nam Á làm mục đầu tiên trong chương trình nghị sự của cuộc gặp cuối cùng giữa Tổng thống mãn nhiệm và Tổng thống kế nhiệm. Cuộc họp này được tổ chức vào sáng ngày 19 tháng 1 năm 1961 tại Phòng Nội các với sự tham dự của Tổng thống Eisenhower, Ngoại trưởng Christian Herter, Bộ trưởng Quốc phòng Thomas Gates, Bộ trưởng Ngân khố Robert Anderson và tướng Persons. Tổng thống đắc cử Kennedy có mặt cùng những người đồng cấp: Ngoại trưởng Dean Rusk, Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara, Bộ trưởng Tài chính Douglas Dillon, và tôi.

Theo gợi ý của Tổng thống đắc cử Kennedy, tôi đã ghi chép những chủ đề quan trọng được thảo luận. Phần lớn thời gian, cuộc thảo luận tập trung vào Đông Nam Á, với trọng tâm là Lào. Vào thời điểm cụ thể đó, tháng 1 năm 1961, Lào đã trở thành tâm điểm chú ý và dường như trở thành mối nguy hiểm chính trong khu vực.

Ghi chú của tôi tiết lộ những nhận xét sau đây của Tổng thống:

Tại thời điểm này, Tổng thống Eisenhower đã nói với một sự xúc động đáng kể rằng Lào là chìa khóa cho toàn bộ khu vực Đông Nam Á.

Ông nói rằng nếu chúng ta để Lào thất thủ, thì chúng ta sẽ xóa sổ tất cả khu vực. Ông tuyên bố rằng chúng ta không được cho phép Cộng sản tiếp quản. Ông nhắc lại rằng chúng ta nên cố gắng hết sức để thuyết phục các quốc gia thành viên SEATO hoặc Ủy ban Kiểm soát Quốc tế chấp nhận gánh nặng với chúng ta để bảo vệ nền tự do của Lào.

Khi kết thúc những nhận xét này, Tổng thống Eisenhower tuyên bố rằng Lào cần phải được bảo vệ. Ông nói rằng Hoa Kỳ nên nhận nhiệm vụ này với các đồng minh của chúng ta, nếu chúng ta có thể thuyết phục họ, và một mình nếu chúng ta không thể. Ông nói thêm, “Sự can thiệp đơn phương của chúng ta sẽ là hy vọng tuyệt vọng cuối cùng trong sự kiện mà chúng ta không khả năng thuyết phục các bên khác ký kết tham gia cùng chúng ta.”

Cuộc thảo luận sáng hôm đó, và mức độ nghiêm trọng mà Tổng thống Eisenhower đề cập đến vấn đề, đã tác động thiết yếu đến tôi. Ông và các cố vấn của mình đã hoàn thành trách nhiệm tám năm phục vụ cho quốc gia. Tôi không thu lượm được sự kiện cũng như kinh nghiệm cá nhân để thách thức đánh giá của họ về tình hình, ngay cả khi tôi muốn làm như vậy. Trọng tâm của bài thuyết trình là tầm quan trọng to lớn đối với Hoa Kỳ trong việc xác định lập trường vững chắc ở Đông Nam Á, và tôi chấp nhận nhận định đó.

Vào một dịp trước đó, khi nói về Đông Nam Á, Tổng thống Eisenhower đã nói rằng việc Cộng sản chiếm được Nam Việt Nam sẽ đưa quyền lực vài trăm dặm của họ vào một vùng vốn tự do cho đến nay. Quyền tự do của 12 triệu người sẽ bị mất ngay lập tức và quyền tự do của 150 triệu người ở các vùng đất liền kề bên sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Việc mất miền Nam Việt Nam sẽ khởi động một quá trình sụp đổ mà khi nó tiến triển, có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho chúng ta và cho tự do.

Khi tôi lắng nghe ông ấy trong Phòng Nội các vào buổi sáng tháng Giêng đó, tôi nhớ lại rằng chính Tổng thống Eisenhower đã làm cho công chúng quen thuộc với cụm từ “học thuyết domino” bằng cách dùng nó để mô tả việc hết quốc gia này đến quốc gia khác có thể nằm dưới sự kiểm soát của cộng sản một khi quá trình bắt đầu ở Đông Nam Á.

Vào mùa xuân năm 1961, tôi được bổ nhiệm làm thành viên trong Ban Cố vấn Tình báo Nước ngoài của Tổng thống. Trong khả năng này, thỉnh thoảng tôi nhận được các thuyết trình về các vấn đề ở châu Á. Thông tin mà Hội đồng cung cấp đã hỗ trợ cho đánh giá của Chính quyền trước đó, mà Tổng thống Kennedy đã đồng tình. “Việc rút ra khỏi vấn đề của Việt Nam,” Tổng thống Kennedy nói vào năm 1961, “và trong trường hợp của Thái Lan có thể có nghĩa là sự sụp đổ của toàn bộ khu vực.” Ông không bao giờ suy suyễn quan niệm. Một năm sau, ông nói về Việt Nam: “Chúng ta sẽ không rút lui khỏi nỗ lực đó. Theo tôi, nếu chúng ta rút lui khỏi nỗ lực đó có nghĩa sự sụp đổ không chỉ của Nam Việt Nam mà cả Đông Nam Á. Vì vậy, chúng ta sẽ ở lại đó.” Tôi không có cơ hội để đặt câu hỏi ý kiến tập thể của các quan chức mà chúng ta chính đáng lựa chọn.

Sau khi Tổng thống Johnson nhậm chức, sự tham gia của chúng ta trở nên lớn lao hơn, nhưng hầu hết các đánh giá công chúng và cá nhân về tính đúng đắn của đường lối của chúng ta cũng vậy. Quyết định Vịnh Bắc Bộ được Quốc hội thông qua năm 1964 với số phiếu 504 trên 2. Ngôn từ nghiêm khắc: “Do đó, Hoa Kỳ sẵn sàng, như Tổng thống quyết định, thực hiện tất cả các bước cần thiết, kể cả việc sử dụng lực lượng quân sự, để hỗ trợ bất kỳ thành viên hoặc quốc gia ký kết của Hiệp ước Phòng thủ Tập thể Đông Nam Á yêu cầu hỗ trợ để bảo vệ nền tự do của mình.”

Khi các quyết định được đưa ra vào năm 1965 nhằm tăng cường cam kết của Mỹ tại Việt Nam một cách rất đáng kể, tôi đã chấp nhận nhận định rằng những hành động như vậy là cần thiết. Mùa thu năm đó, tôi thực hiện một chuyến đi đến Đông Nam Á với tư cách là Chủ tịch Ban Cố vấn Tình báo Nước ngoài. Sự lạc quan của quân đội chúng ta và các quan chức Việt Nam về việc tiến hành chiến tranh, cùng với sự khuyến khích của các đồng minh châu Á, đã khẳng định niềm tin của tôi vào tính đúng đắn của chính sách chúng ta. Vào thời điểm không có dấu hiệu cho thấy Hà Nội có bất kỳ lợi ích nào trong đàm phán hòa bình, tôi không ủng hộ việc ngừng ném bom 37 ngày trong mùa lễ Giáng sinh 1965 - Năm mới 1966. Tôi cảm thấy việc dừng lại như vậy có thể được giải thích bởi Hà Nội như là một dấu hiệu sự yếu kém của chúng ta.

Năm 1966, tôi làm cố vấn cho Tổng thống Johnson tại Hội nghị Manila. Đó là cuộc tập họp đầy ấn tượng của các nguyên thủ quốc gia, và người đứng đầu chính phủ các nước đồng minh; nó trấn an tôi rằng chúng ta đang đi đúng đường và tiến bộ quân sự đang đưa chúng ta đến gần hơn giải pháp cho cuộc xung đột.

Vào cuối mùa hè năm 1967, Tổng thống Johnson mời tôi đi cùng với Trợ lý đặc biệt của ông, Tướng Maxwell Taylor, để xem xét tình hình miền Nam Việt Nam và sau đó đi thăm một số đồng minh của chúng ta ở Thái Bình Dương. Chúng ta phải thông báo ngắn gọn cho họ biết về cuộc chiến và thảo luận với họ về khả năng tăng cường cam kết đóng quân. Các cuộc thuyết trình của chúng ta ở miền Nam Việt Nam rất sâu rộng và đáng khích lệ. Có ý kiến cho rằng địch bị tổn thất nặng nề và việc ném bom cùng hỏa lực vượt trội của ta đang bắt đầu đạt kết quả như mong đợi.

Tuy nhiên, chuyến thăm của chúng ta tới các thủ đô của đồng minh đã mang lại những kết quả mà tôi không lường trước được. Đối với tôi, điều đáng chú ý là các quốc gia đóng góp quân đội khác không còn chia sẻ mức độ quan ngại như chúng ta về cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Tướng Taylor và tôi kêu gọi họ tăng cường tham gia. Về cơ bản, lời cầu xin của chúng ta đã bị bỏ qua.

Thái Lan, nước láng giềng gần miền Nam Việt Nam, với dân số khoảng 30 triệu người, chỉ cử 2.500 quân tới miền Nam Việt Nam và không vội phân bổ thêm.

Tổng thống Philippines khuyên Tổng thống Johnson rằng ông không nên dừng lại ở đó vì có thể có phản ứng bất lợi từ công chúng. Philippines, rất gần và có vẻ rất dễ bị tổn thương nếu họ chấp nhận thuyết domino, đã gửi một quân đoàn bệnh viện và một tiểu đoàn công binh đến Việt Nam, nhưng không có quân chiến đấu. Tổng thống Johnson cũng nói rõ rằng họ không có ý định gửi đi bất kỳ nhân sự chiến đấu nào.

Hàn Quốc có đội quân châu Á đáng kể duy nhất hỗ trợ Nam Việt Nam, nhưng các quan chức lập luận rằng mức độ hoạt động mạnh hơn của phía Triều Tiên đã ngăn cản họ tăng cường thêm sự hỗ trợ.

Mặc dù những chuyến viếng thăm này thật đáng thất vọng nhưng tôi vẫn đặt nhiều hy vọng vào sự thành công của sứ mệnh của chúng tôi ở Úc và New Zealand. Tôi nhớ lại rằng Úc, khi đó có dân số nhỏ hơn nhiều, đã có thể duy trì hơn 300.000 quân ở nước ngoài trong Thế chiến thứ hai. Họ chỉ gửi 7.000 người sang Việt Nam. Chắc chắn là có hy vọng ở đây. Nhưng Thủ tướng Holt, người đã được thông báo đầy đủ, đã trình bày một danh sách dài các lý do tại sao Australia đã đạt được gần nỗ lực tối đa.

Ở New Zealand, chúng tôi dành phần lớn thời gian trong ngày để trao đổi với Thủ tướng và nội các của ông, trong khi hàng trăm sinh viên biểu tình tại Tòa nhà Quốc hội mang theo các tấm bảng với khẩu hiệu hòa bình. Những viên chức này lịch sự và thông cảm, giống như tất cả những người khác, nhưng họ nói rõ rằng bất kỳ sự gia tăng đáng kể nào cũng không thể xảy ra. New Zealand từng có 70.000 quân ở nước ngoài tham gia nhiều chiến trường khác nhau trong Thế chiến thứ hai. Họ có 500 người ở Việt Nam. Tất nhiên tôi tự hỏi liệu đây có phải là sự đánh giá của họ về mức độ nguy hiểm riêng rẽ của hai cuộc xung đột hay không.

Tôi trở về nhà trong tâm trạng bối rối, lo lắng. Phải chăng đánh giá của chúng ta về mối nguy hiểm đối với sự ổn định của Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương đã bị cường điệu hóa? Phải chăng các nước láng giềng của Việt Nam nhận thức rõ ràng hơn về những diễn biến thế giới năm 1967 hơn chúng ta? Phải chăng chúng ta đang tiếp tục bị hướng dẫn bởi những phán đoán mà trước đây có thể có giá trị nhưng giờ đây đã lỗi thời? Nói tóm lại, mặc dù tôi vẫn coi mình là người ủng hộ trung thành các chính sách của chúng ta, nhưng trong đầu tôi vẫn có những nghi ngờ dai dẳng, không thể kìm nén được.

Những nghi ngờ này đã được bi thảm hóa một thời gian ngắn sau đó tại Hoa Kỳ khi tôi tham dự bữa tối tại Nhà Trắng dành cho Thủ tướng Lý Quang Diệu của Singapore. Đất nước của ông, vốn đã trải qua sự cay đắng của thất bại và bị chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai, đã từ chối gửi bất kỳ người nào đến Việt Nam. Để trả lời câu hỏi của tôi về việc khi nào ông nghĩ có thể gửi quân, ông nói rằng ông không thấy khả năng điều đó xảy ra vì ảnh hưởng chính trị bất lợi ở Singapore.

Theo đó, tôi hoan nghênh bài phát biểu tại San Antonio của Tổng thống Johnson vào ngày 30 tháng 9 năm 1967, với sự nhiệt tình hơn nhiều so với khi tôi mới trở về từ Thái Bình Dương. Tôi cảm thấy nó đánh dấu một bước quan trọng theo đúng hướng vì nó đưa ra một giải pháp thay thế cho giải pháp quân sự cho cuộc xung đột kéo dài và tốn kém. Cuộc ném bom của quân đồng minh vào miền Bắc Việt Nam bây giờ đã mang một ý nghĩa biểu tượng có tầm quan trọng to lớn và Tổng thống đã tập trung sự chú ý của mình vào việc này. Bản chất của đề xuất của ông là đề nghị ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam nếu các cuộc đàm phán hòa bình nhanh chóng và hiệu quả với phía bên kia diễn ra. Chúng ta có thể cho rằng phía bên kia sẽ “không lợi dụng” việc ngừng ném bom. Bằng công thức này, Tổng thống đã thực hiện một động thái đầy sáng tạo nhằm chấm dứt tình trạng bế tắc về vụ đánh bom và bắt đầu các cuộc đàm phán.

Tất nhiên, tôi chia sẻ nỗi thất vọng chung rằng đề nghị của San Antonio không nhận được phản ứng tích cực nào từ Hà Nội, nhưng cảm xúc của tôi phức tạp hơn cảm giác thất vọng đơn thuần. Khi tôi lắng nghe cuộc thảo luận chính thức ở Washington, cảm xúc của tôi chuyển từ thất vọng sang mất tinh thần. Tôi thấy người ta đã lặng lẽ khẳng định rằng, để đổi lấy việc ngừng ném bom ở miền Bắc, Bắc Việt phải ngừng gửi người và vật chất vào miền Nam Việt Nam. Nhìn bề ngoài, đây có vẻ là một cuộc trao đổi công bằng. Đối với tôi, đó là một cách giải thích đáng tiếc – dù cố ý hay không – khiến công thức San Antonio gần như vô nghĩa. Bắc Việt có hơn 100.000 quân ở miền Nam. Hoàn toàn không thực tế khi mong đợi họ bỏ rơi người của mình bằng cách không thay thế thương vong và không cung cấp cho họ quần áo, thực phẩm, đạn dược và các vật dụng khác. Chúng ta không bao giờ có thể mong đợi họ chấp nhận lời đề nghị đàm phán về những điều kiện đó.

III

Vào giữa tháng 1 năm 1968, Tổng thống Johnson đề nghị tôi giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng, kế nhiệm Bộ trưởng McNamara, người sẽ rời đi để trở thành Chủ tịch Ngân hàng Thế giới. Trong phiên điều trần xác nhận trước Ủy ban Quân vụ Thượng viện vào ngày 25 tháng 1, tôi đã được hỏi về công thức San Antonio. Cách giải thích mà tôi đưa ra phù hợp với mong muốn mãnh liệt của Tổng thống Johnson là bắt đầu các cuộc đàm phán, và nó đưa ra một khả năng chấp nhận mà tôi tin rằng không tồn tại với những cách giải thích cực đoan và cứng nhắc khiến tôi lo lắng. Tôi nói, tôi cho rằng Bắc Việt sẽ “tiếp tục vận chuyển lượng hàng hóa, đạn dược và quân nhân bình thường đến miền Nam Việt Nam” ở mức độ như trước khi chúng tôi ngừng ném bom. Đây là sự hiểu biết của tôi về ý của Tổng thống khi nói “không lợi dụng”.

Những cách giải thích khác nhau về công thức San Antonio đã dấy lên trong đầu tôi câu hỏi liệu tất cả chúng ta có cùng mục tiêu hay không. Có vẻ như một số người có thể hình dung ra một giải pháp thỏa đáng là không có giải pháp nào khác ngoài việc đánh bại hoàn toàn quân sự của kẻ thù. Tôi không tính mình vào nhóm này. Mặc dù tôi vẫn chấp nhận những tiền đề hợp lệ về sự tham gia của Việt Nam, nhưng tôi không hài lòng với sự cứng nhắc đã hạn chế đường lối hành động và các lựa chọn thay thế của chúng ta.

Tôi nhậm chức ngày 1/3/1968. Cuộc tấn công Tết Mậu Thân cuối tháng 1, đầu tháng 2 của địch đã bị đánh trả với giá rất kinh khủng. Niềm tin của người dân Mỹ đã bị lung lay nặng nề. Khả năng của Chính phủ miền Nam Việt Nam trong việc khôi phục trật tự và tinh thần trong dân chúng cũng như kỷ luật và tinh thần trong lực lượng quân đội đang bị nghi ngờ. Theo chỉ đạo của Tổng thống, Tướng Earle G. Wheeler, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, đã bay sang Việt Nam vào cuối tháng 2 để hội nghị trực tiếp với Tướng Westmoreland. Ông vừa về và trình bày yêu cầu của quân đội chuẩn bị hơn 200.000 quân để triển khai sang Việt Nam. Đội quân này sẽ được bổ sung vào con số 525.000 người được ủy quyền trước đó. Tôi được chỉ đạo, nhiệm vụ đầu tiên là làm chủ tịch một nhóm đặc nhiệm do Tổng thống chỉ định để xác định cách thức có thể đáp ứng yêu cầu mới này. Chúng ta không được hướng dẫn đánh giá nhu cầu thiết yếu gia tăng về nhân sự và trang thiết bị; chúng ta phải nghĩ ra phương tiện để có thể cung cấp cho họ.

Công việc bộ trưởng quốc phòng của tôi đã bị cắt bỏ. Lực lượng đặc nhiệm bao gồm Bộ trưởng Rusk, Bộ trưởng Henry Fowler, Thứ trưởng Ngoại giao Nicholas Katzenbach, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Paul Nitze, Tướng Wheeler, Giám đốc CIA Richard Helms, Trợ lý đặc biệt của Tổng thống, Walt Rostow, Tướng Maxwell Taylor và những người có kỹ năng và năng lực cao khác. Tất cả họ đều có kinh nghiệm lâu dài và trực tiếp về các vấn đề của Việt Nam. Tôi không có. Tôi đã tham dự nhiều cuộc họp khác nhau trong nhiều năm qua và đã đến Việt Nam ba lần, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng ít ai biết được liệu mình có đang ở rìa của một vấn đề chứ không thực sự nằm trong đó hay không. Cho đến những buổi họp kéo dài cả ngày vào đầu tháng 3, tôi chưa bao giờ có cơ hội phân tích chuyên sâu và tìm hiểu thực tế. Bây giờ tôi được đẩy vào một cuộc đánh giá thẳng thắn, mạnh mẽ và tàn nhẫn về hoàn cảnh của chúng tôi bởi những người hiểu rõ nhất về nó. Dù chúng tôi có cố gắng tiếp tục nhiệm vụ nghĩ ra các phương tiện để đáp ứng yêu cầu của quân đội thì những câu hỏi cơ bản vẫn cứ lặp đi lặp lại.

Tất nhiên, không thể nhớ lại tất cả các câu hỏi đã được hỏi cũng như tất cả các câu trả lời đã được đưa ra. Nếu một bản ghi lại các cuộc thảo luận của chúng tôi được thực hiện - không chỉ một - nó sẽ dài tới hàng trăm trang in dày đặc. Các tài liệu mà những người tham gia mang đến bàn tổng cộng lại, nếu được tập hợp ở một nơi—mà thực ra không phải vậy—thêm hàng trăm tài liệu nữa. Tất cả những gì liên quan đến bài tiểu luận này là những ấn tượng mà tôi đã hình thành và những kết luận mà cuối cùng tôi đã đạt được trong những ngày cẩn trọng làm việc mệt mỏi đó. Theo phong cách thông thường của những cuộc họp đó, đây là một số vấn đề chính được nêu ra và một số câu trả lời theo cách hiểu của tôi:

“Liệu có thêm 200.000 người nữa làm việc này không?” Tôi không tìm thấy sự đảm bảo nào rằng họ sẽ được như vậy.

“Nếu không, có thể cần thêm bao nhiêu nữa – và khi nào?” Không có cách nào để biết.

“Điều gì đưa đến việc đưa thêm 200.000 người vào Việt Nam?” Một đợt nhập ngũ dự bị khoảng 280.000 người, một đợt nhập ngũ gia tăng và việc gia hạn các công tác thực hiện nhiệm vụ của hầu hết nam giới đang phục vụ tại ngũ.

“Kẻ thù có thể đáp trả bằng cách tự mình xây dựng lực lượng không?” Họ có thể và có lẽ họ sẽ làm được.

“Uớc tính chi phí của các yêu cầu mới nhất là bao nhiêu?” Những tính toán đầu tiên là khoảng 2 tỷ USD cho bốn tháng còn lại của năm tài chính đó và tăng từ 10 đến 12 tỷ USD cho năm bắt đầu từ ngày 1 tháng 7 năm 1968.

“Điều gì sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế?” Ghê gớm đến mức chúng ta sẽ phải đối mặt với khả năng bị hạn chế tín dụng, tăng thuế và thậm chí là kiểm soát tiền lương và giá cả. Cán cân thanh toán sẽ trở nên tồi tệ hơn ít nhất nửa tỷ đô la mỗi năm.

“Ném bom có thể chấm dứt chiến tranh không?” Không bao giờ tự nó. Nó gây ra tổn thất nặng nề về nhân lực và vật chất, nhưng chỉ ném bom sẽ không chấm dứt được chiến tranh.

“Việc đẩy mạnh ném bom có làm giảm thương vong của người Mỹ không?” Rất ít, nếu có. Thương vong của chúng ta là do cường độ giao tranh trên bộ ở miền Nam. Chúng ta đã thả một lượng bom nặng hơn tất cả các chiến trường trong Thế chiến thứ hai. Trong năm 1967, ước tính có khoảng 90.000 lính Bắc Việt đã xâm nhập vào miền Nam Việt Nam. Trong những tuần đầu năm 1968, số lượng xâm nhập đã tăng gấp ba đến bốn lần so với một năm trước đó, bất chấp sự khốc liệt và cường độ của chiến dịch ngăn chặn trên không của chúng ta.

“Chúng ta phải tiếp tục gửi quân và gánh vác gánh nặng chiến đấu trong bao lâu?” Quân đội miền Nam làm tốt hơn nhưng họ chưa sẵn sàng thay thế quân đội của chúng ta và chúng ta cũng không biết khi nào họ sẽ làm được.

Khi tôi yêu cầu trình bày về kế hoạch quân sự để giành chiến thắng ở Việt Nam, tôi được trả lời rằng không có kế hoạch chiến thắng theo nghĩa lịch sử của Mỹ. Tại sao không? Bởi vì lực lượng của chúng ta đang hoạt động theo ba hạn chế chính trị lớn: Tổng thống đã cấm xâm lược miền Bắc Việt Nam vì điều này có thể kích hoạt hiệp ước tương trợ giữa miền Bắc Việt Nam và Trung Quốc; Tổng thống đã cấm phong tỏa mìn cảng Hải Phòng, cảng chính mà miền Bắc tiếp nhận quân nhu, vì tàu Liên Xô có thể bị đánh chìm; Tổng thống đã cấm quân ta truy kích địch vào Lào và Campuchia, vì làm như vậy sẽ gây chiến lan rộng về mặt chính trị và địa lý, không mang lại lợi ích gì rõ ràng. Những hạn chế này và những hạn chế khác ngăn cản nỗ lực quân sự toàn diện, không giới hạn đã được thiết kế một cách khôn ngoan để ngăn cản chúng ta bị lôi kéo vào một cuộc chiến lớn hơn. Chúng ta không có ý định đề nghị Tổng thống hủy bỏ.

“Trong hoàn cảnh này, làm sao chúng ta có thể thắng được?” Tôi được biết rằng chúng ta sẽ tiếp tục chứng tỏ ưu thế của mình so với kẻ thù; chúng ta sẽ tiếp tục tấn công với niềm tin rằng kẻ thù sẽ đạt đến giai đoạn mà họ sẽ thấy không nên tiếp tục chiến tranh. Kẻ thù không thể chịu đựng được sự tổn thất mà chúng ta gây ra cho họ. Và chúng tôi luôn luôn cải thiện tình thế của mình.

Sau đó tôi hỏi: “Ước tính tốt nhất về quá trình hành động này sẽ kéo dài bao lâu? Sáu tháng? Một năm? Hai năm?" Không có sự thống nhất về câu trả lời. Không những không có sự đồng tình, tôi còn không tìm thấy ai sẵn sàng bày tỏ sự tin tưởng vào những suy đoán của mình. Chắc chắn không ai trong chúng tôi sẵn sàng khẳng định rằng ông có thể nhìn thấy “ánh sáng cuối đường hầm” hay quân đội Mỹ sẽ về nước vào cuối năm nay.

Sau nhiều ngày phân tích kiểu này, mối quan tâm của tôi đã trở nên sâu sắc hơn rất nhiều. Tôi không thể biết khi nào chiến tranh sẽ kết thúc; Tôi không thể tìm ra nó sẽ kết thúc như thế nào; Tôi không thể biết liệu những yêu cầu mới về nhân lực và thiết bị có đủ hay không, hay liệu có cần nhiều hơn và nếu nhiều hơn thì khi nào và bao nhiêu; Tôi không thể biết bao lâu nữa lực lượng miền Nam Việt Nam sẽ sẵn sàng tiếp quản. Tất cả những gì tôi có là một lời tuyên bố, được đưa ra với quá ít sự tự tin để có thể an ủi, rằng nếu chúng ta kiên trì cho một khoảng thời gian không xác định, kẻ thù sẽ chọn không tiếp tục.

Vì thế tôi hỏi: “Có ai thấy ý chí của kẻ thù suy giảm sau bốn năm chúng ta có mặt ở đó, sau những thương vong to lớn và sau sự tàn phá nặng nề từ vụ ném bom của chúng ta không?”

Câu trả lời là dường như ý chí của kẻ thù không hề suy giảm. Câu trả lời này gây ấn tượng gấp đôi, bởi vì tôi ngày càng ý thức hơn về tình trạng bất ổn ở đất nước chúng ta. Đốt thẻ quân dịch, tuần hành trên đường phố, vấn đề trong khuôn viên trường học, cay đắng và chia rẽ lan tràn. Điều làm tôi lo lắng không kém là những tác động kinh tế của một cuộc đấu tranh phải tiếp tục vô thời hạn với chi phí ngày càng tăng. Đồng đô la đã gặp khó khăn, giá cả leo thang quá nhanh và các biện pháp kiểm soát khẩn cấp đối với đầu tư nước ngoài áp dụng vào ngày đầu năm mới sẽ chỉ là khúc dạo đầu cho các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn, nếu chúng ta bổ sung thêm 12 tỷ USD vào chi tiêu của Việt Nam - có lẽ vẫn còn hơn để tiếp tục theo.

Tôi cũng ý thức được nghĩa vụ và sự tham gia của chúng ta ở những nơi khác trên thế giới. Có những dấu hiệu hy vọng nhất định trong quan hệ của chúng ta với Liên Xô, nhưng cả hai nước đều bị cản trở trong việc tiến tới các cuộc đàm phán cực kỳ quan trọng về việc hạn chế vũ khí chiến lược chừng nào Hoa Kỳ còn cam kết thực hiện một giải pháp quân sự ở Việt Nam. Chúng ta không thể bỏ qua lợi ích của mình ở Trung Đông, Nam Á, Châu Phi, Tây Âu và những nơi khác. Ngay cả khi chấp nhận tính đúng đắn của mục tiêu của chúng ta ở Việt Nam, mục tiêu đó phải được xem xét trong bối cảnh lợi ích chung của quốc gia chúng ta và không thể theo đuổi một cách hợp lý với cái giá cao đến mức làm suy giảm khả năng của chúng ta để đạt được những mục tiêu khác, và thậm chí có thể còn hơn thế nữa. mục tiêu quan trọng của chính sách đối ngoại.

Ngoài ra, tôi cũng không thể thoát khỏi mối nghi ngờ dai dẳng còn sót lại từ chuyến đi tháng 8 đó, rằng nếu các quốc gia sống dưới cái bóng của Việt Nam bây giờ không bị thuyết phục bởi thuyết domino thì có lẽ đã đến lúc chúng ta phải có một cái nhìn khác. Những nỗ lực của chúng ta đã giúp các quốc gia trong khu vực đó có thêm thời gian sau khi giành được độc lập để tổ chức và xây dựng nền an ninh của mình. Tôi không thấy có lý do gì vào thời điểm này để chúng ta tiếp tục thực hiện cam kết của mình. Cuối cùng, không có gì đảm bảo rằng việc tăng thêm 40% quân đội Mỹ sẽ đặt chúng ta trong vòng vài tuần, vài tháng hoặc thậm chí vài năm tới ở bất kỳ vị thế quân sự nào tốt hơn đáng kể so với lúc đó. Tất cả những gì có thể dự đoán chính xác là có nhiều quân hơn sẽ nâng cao trình độ chiến đấu và tự động nâng cao mức độ thương vong của cả hai bên.

Và thế là, sau những ngày mệt mỏi này, tôi tin chắc rằng con đường quân sự mà chúng ta đang theo đuổi không những là vô tận mà còn là vô vọng. Sự gia tăng đáng kể hơn nữa về lực lượng của Mỹ chỉ có thể làm tăng thêm sự tàn phá và cuộc Mỹ hóa chiến tranh, và do đó khiến chúng ta càng rời xa mục tiêu đạt được một nền hòa bình cho phép người dân miền Nam Việt Nam xây dựng các thể chế chính trị và kinh tế của riêng họ. Từ đó trở đi, tôi cũng bị thuyết phục rằng mục tiêu chính của chúng ta là giảm bớt sự tham gia của mình và hướng tới việc tách ra dần dần.

IV

Việc đưa ra một kết luận và thực hiện nó không giống nhau, đặc biệt khi một người không có quyền quyết định cuối cùng. Bây giờ mục đích của tôi là nhấn mạnh với các đồng nghiệp và với Tổng thống rằng Hoa Kỳ đã vào Việt Nam với một mục tiêu hạn chế – ngăn chặn sự khuất phục của miền Bắc và để người dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai của mình. Tôi cũng lập luận rằng chúng ta đã đạt được phần lớn mục tiêu đó. Không có gì bắt buộc chúng ta phải ở lại cho đến khi miền Bắc bị đẩy ra khỏi miền Nam và chính quyền Sài Gòn được thành lập dưới sự kiểm soát quân sự hoàn toàn trên toàn miền Nam Việt Nam. Việc tăng thêm hơn 200.000 quân có nghĩa là lực lượng Mỹ sẽ đông gấp đôi quân đội chính quy của Nam Việt Nam vào thời điểm đó. Mục tiêu của chúng ta là xây dựng một Chính phủ miền Nam Việt Nam mạnh mẽ hơn và một lực lượng quân sự hiệu quả có khả năng thay thế chúng ta sẽ gây thất vọng hơn là tiến xa hơn. Chúng ta càng tiếp tục làm nhiều việc ở miền Nam Việt Nam, thì người miền Nam Việt Nam càng ít có khả năng gánh vác gánh nặng của chính mình.

Cuộc tranh luận tiếp tục diễn ra tại Nhà Trắng trong nhiều ngày. Tổng thống Johnson khuyến khích tôi báo cáo những phát hiện và quan điểm của mình một cách hết sức thẳng thắn, nhưng ông cũng nhất quyết muốn nghe quan điểm của người khác. Cuối cùng, vào những giờ phút cuối tháng 3, Tổng thống đã đưa ra quyết định và báo cáo với toàn dân vào tối ngày 31. Ba vấn đề liên quan trực tiếp tới cuộc đánh giá chiến tranh hàng tháng. Thứ nhất, Tổng thống tuyên bố thiết lập mức tối đa 549.500 trong cam kết của Mỹ đối với Việt Nam; Đội quân mới duy nhất ra đi sẽ là đội quân hỗ trợ đã hứa trước đó. Thứ hai, chúng ta sẽ tăng tốc viện trợ cho lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam. Chúng ta sẽ trang bị và huấn luyện họ để đảm nhận những trách nhiệm chiến đấu quan trọng của chúng ta theo một lịch trình được đẩy nhanh hơn nhiều. Thứ ba, nói chuyện với Hà Nội, Tổng thống tuyên bố ông hạn chế rất nhiều việc Mỹ ném bom miền Bắc như một lời mời và khích lệ để bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình. Chúng ta sẽ dừng ném bom phía bắc vĩ tuyến 20. Bằng hành động kiềm chế đơn phương này, gần 80% lãnh thổ miền Bắc Việt Nam sẽ không còn là mục tiêu chúng ta ném bom nữa.

Tôi đã nhậm chức vào đầu tháng với một nhiệm vụ quan trọng nhất trước mắt là đáp ứng yêu cầu của quân đội tăng cường lực lượng của chúng ta ở Việt Nam để có thể tiến hành cuộc chiến một cách mạnh mẽ hơn. Bây giờ tôi và các đồng nghiệp có hai nhiệm vụ khác nhau và có phạm vi dài hơn – phát triển một kế hoạch chuyển gánh nặng cho miền Nam Việt Nam nhanh nhất có thể và hỗ trợ các nỗ lực ngoại giao của chính phủ để tham gia vào các cuộc đàm phán hòa bình.

Để đánh giá tiến độ thực hiện nhiệm vụ đầu tiên, tôi đã sang Việt Nam vào tháng 7. Tôi rất phấn khởi trước tinh thần tuyệt vời và điều kiện lực lượng chúng ta, nhưng tôi thấy rất ít bằng chứng cho thấy các quốc gia đóng góp quân đội khác, hoặc miền Nam Việt Nam, đang cố gắng giảm bớt gánh nặng cho chúng ta. Mặc dù đã có sự gia tăng trên danh nghĩa đóng góp quân của Australia và Thái Lan kể từ mùa hè trước đó, Philippines thực tế đã rút về nhiều trăm người. Các nước góp quân không còn gánh nặng chiến đấu nữa; tỷ lệ thương vong của họ thực sự đã giảm xuống.

Về phía các viên chức miền Nam, hết cuộc thảo luận này đến cuộc thảo luận khác, tôi thấy họ tuyên bố không nhận thức được những thiếu sót trong các vấn đề như huấn luyện quân đội, sức mạnh sĩ quan cấp dưới và tỷ lệ đào ngũ. Tôi cảm thấy họ quá tự mãn khi sự thật được phơi bày trước mắt. Ví dụ, tôi đã hỏi Phó Tổng thống Kỳ về tỷ lệ đào ngũ của quân nhân miền Nam Việt Nam đang ở mức 30% một năm. Ông ta trả lời rằng nó quá lớn, một phần là do người của họ không được trả đủ lương. Tôi hỏi chính phủ của ông dự định làm gì. Ông gợi ý rằng chúng ta có thể cắt giảm ném bom, chuyển số tiền tiết kiệm được cho chính quyền Sài Gòn và dùng số tiền đó để trả lương cho quân đội. Ông ấy không hề đùa giỡn; đề nghị của ông ấy là một đề nghị nghiêm túc. Tôi trở về nhà trong tâm trạng bị đè nặng bởi quá trình Mỹ hóa chiến tranh tràn lan: chúng tôi vẫn đưa ra chỉ thị quân sự, vẫn thực hiện hầu hết các cuộc chiến, vẫn cung cấp tất cả vật chất, vẫn thanh toán hầu hết các hóa đơn. Tệ nhất là tôi kết luận rằng các nhà lãnh đạo miền Nam Việt Nam dường như hài lòng với cách đó.

Miền Bắc đã đáp lại bài phát biểu của Tổng thống ngày 31 tháng 3 và các cuộc họp đã bắt đầu ở Paris vào tháng 5. Tuy nhiên, đó là một cách nói êm tai khi gọi đó là các cuộc đàm phán hòa bình. Vào giữa mùa hè, các cuộc thảo luận nội dung vẫn chưa bắt đầu. Các nhà đàm phán của chúng tôi, Đại sứ có năng lực và giàu kinh nghiệm Averell Harriman và cộng sự tài năng của ông, Cyrus Vance, đã nhất quyết yêu cầu chính quyền Sài Gòn phải tham gia vào các cuộc đàm phán. Hà Nội bác bỏ điều này. Tổng thống Johnson, một cách đúng đắn và dễ hiểu, đã từ chối ra lệnh ngừng ném bom hoàn toàn miền Bắc cho đến khi Hà Nội chấp nhận những hạn chế có đi có lại. Hà Nội từ chối. Với sự bế tắc khó chịu này, mùa hè đã trôi qua ở Paris.

Ở Việt Nam, danh sách thương vong của Mỹ dài một cách bi thảm, tuần này qua tuần khác. Kẻ thù đã không chiến thắng nhưng tôi cảm thấy chúng ta cũng vậy. Có nhiều khu vực khác trên thế giới nơi mà ảnh hưởng, sức mạnh đạo đức và sự đóng góp kinh tế của chúng ta rất cần thiết và bị hạn chế do mối bận tâm với sự can dự của chúng ta vào Đông Nam Á.

Tôi trở về từ cuộc họp của NATO ở Bonn vào tối Chủ nhật, ngày 13 tháng 10, và nhận được giấy triệu tập tới cuộc họp ở Nhà Trắng vào sáng hôm sau. Đã có biến chuyển ở Paris. Không có thỏa thuận chính thức nào, nhưng nhóm đàm phán của chúng tôi và phía Bắc Việt đã đạt được một số "hiểu biết" nhất định. Cuối cùng miền Bắc đã chấp nhận sự tham gia của miền Nam vào các cuộc đàm phán hòa bình. Chúng ta sẽ ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam. Các cuộc đàm phán thực chất đã được bắt đầu nhanh chóng. Chúng ta đã nói rõ với Hà Nội rằng chúng ta không thể tiếp tục đàm phán nếu có pháo kích bừa bãi vào các thành phố lớn ở miền Nam, hoặc nếu khu phi quân sự bị xâm phạm khiến quân đội của chúng ta gặp nguy hiểm.

Tổng thống trình bày tình hình cho các cố vấn của mình. Chúng tôi đã dành một ngày xem xét khó khăn và tổng kết đầy đủ. Tham mưu trưởng liên quân nhất trí tuyên bố rằng việc ngừng ném bom trong những trường hợp này là có thể chấp nhận được. Bộ Ngoại giao được ủy quyền báo cáo với Sài Gòn rằng chúng ta đã giành được một ghế vào bàn hội nghị cho chính quyền Sài Gòn và yêu cầu phái đoàn của họ có mặt sớm nhất có thể tại Paris. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm và hy vọng; chúng ta đã bắt đầu đi đến con đường hòa bình.

Những cảm giác này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Ba tuần tiếp theo đối với tôi cũng đau đớn như tháng Ba vậy. Điện báo từ Sài Gòn thật choáng váng. Chính phủ miền Nam Việt Nam, bất ngờ và đột xuất, không sẵn lòng đi Paris. Đầu tiên là lý do này, sau đó là lý do khác, rồi lý do khác nữa được đánh điện về Washington. Ngay khi một chướng ngại vật ở Sài Gòn được vượt qua thì một trở ngại khác lại thay thế. Sự hoài nghi chuyển sang thất vọng. Tôi cảm thấy Tổng thống và nước Mỹ đang bị lợi dụng một cách tồi tệ. Tệ hơn nữa, tôi cảm thấy Sài Gòn đang cố gắng sử dụng quyền phủ quyết đối với thỏa thuận tham gia đàm phán hòa bình của chúng ta. Tôi vô cùng ngưỡng mộ khả năng kiên nhẫn của Tổng thống trong những hoàn cảnh khó chịu nhất. Mỗi ngày đều có nguy cơ miền Bắc có thể thay đổi quyết định, và những nỗ lực cần cù hàng tháng trời ở Paris sẽ trở nên vô ích; mỗi ngày ông đều chứng kiến một nỗ lực mới nhằm đáp ứng sự phản đối mới nhất của Sài Gòn.

Để tự tin rằng việc ngừng ném bom sẽ không gây nguy hiểm cho lực lượng của chúng ta cũng như của các đồng minh, Tổng thống đã ra lệnh cho Tướng Creighton W, Abrams trở về từ miền Nam Việt Nam để báo cáo cá nhân. Cuối cùng, vào ngày 31 tháng 10, Tổng thống Johnson tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, đàm phán hòa bình sẽ nhanh chóng bắt đầu và Sài Gòn được đảm bảo có một ghế tại bàn hội nghị. Tuy nhiên, phải mất nhiều tuần để chính quyền Sài Gòn đến Paris và vẫn phải mất nhiều tuần nữa mới đạt được thỏa thuận về việc sắp xếp chỗ ngồi.

Vào lúc những khó khăn khác nhau đã được giải quyết, một số quan điểm rõ ràng và dứt khoát về thái độ và lập trường của chính quyền Sài Gòn đã kết tinh trong tâm trí tôi. Những ý kiến này đã được hình thành kể từ chuyến đi của tôi tới miền Nam Việt Nam vào tháng 7 trước đó.

Mục tiêu của chính quyền Sài Gòn và mục tiêu của Hoa Kỳ không còn là một, nếu thực sự chúng đã từng như vậy. Họ không hoàn toàn xung đột nhưng rõ ràng họ không giống nhau. Chúng tôi đã hoàn thành phần lớn mục tiêu mà chúng tôi đã tham gia đấu tranh. Không còn nghi ngờ gì nữa về mong muốn của người dân Mỹ muốn kết thúc cuộc phiêu lưu ở Việt Nam.

Như Đại sứ Harriman đã nhận xét, thật nguy hiểm nếu để mục tiêu của mình leo thang giữa lúc đang chiến tranh. Ông khuyên hãy ghi nhớ các mục tiêu của mình và ngay khi đạt được chúng, hãy yêu cầu dừng lại. Việc giành được lòng trung thành của dân làng đối với chính quyền trung ương ở Sài Gòn, hình thức của một chính phủ thời hậu chiến, ai là người lãnh đạo và họ phải được lựa chọn như thế nào - những điều này rõ ràng không nằm trong số các mục tiêu chiến tranh ban đầu của chúng ta. Nhưng đây chính xác là những lĩnh vực có sự khác biệt giữa chúng ta với chính quyền Sài Gòn.

Theo quan điểm của chính quyền Sài Gòn, chiến tranh càng kéo dài, với sự tham gia quy mô lớn của Mỹ, chế độ của họ càng ổn định và họ càng phải nhượng bộ ít hơn đối với các nhóm chính trị khác. Nếu Hoa Kỳ tiếp tục nỗ lực quân sự thêm hai hoặc ba năm nữa, có lẽ Bắc Việt và Việt Cộng sẽ bị tiêu diệt đến mức không cần nhượng bộ gì cả. Trong khi đó, một lượng lớn tài sản của Mỹ đang được đổ vào nền kinh tế miền Nam Việt Nam. Nói tóm lại, dù có vẻ nghiệt ngã và khó chịu, tôi đã kết luận trong những tuần mùa đông ảm đạm rằng Sài Gòn không vội kết thúc giao tranh và chế độ Sài Gòn không muốn chúng ta đạt được giải pháp sớm về các vấn đề quân sự với Hà Nội.

Thực tế cho thấy, việc tạo dựng các thể chế chính trị, xã hội, kinh tế vững mạnh là việc làm mà người Việt Nam phải tự mình làm. Chúng ta không thể làm điều đó cho họ, họ cũng không thể làm điều đó trong khi sự hiện diện của chúng ta đang đè nặng lên họ một cách ồ ạt. Tổng thống Thiệu, Phó Tổng thống Kỳ, Thủ tướng Hương và những người kế nhiệm họ có nhiệm vụ hàn gắn các thể chế chính trị khả thi từ hơn 100 nhóm nhỏ tự gọi mình là đảng phái chính trị. Việc để họ tiếp tục công việc là tùy thuộc vào chúng ta. Không điều gì chúng ta có thể làm có thể mang lại lợi ích hoặc có thể góp phần vào sự trưởng thành chính trị của miền Nam Việt Nam đến mức bắt đầu rút quân chiến đấu của chúng ta. Hơn nữa, theo quan điểm của tôi, trên thực tế, chúng ta không thể mong đợi đạt được bất cứ điều gì hơn nữa thông qua lực lượng quân sự của mình và đã đến lúc bắt đầu rút lui. Đó là kết luận cuối cùng của tôi khi rời Lầu Năm Góc vào ngày 20 tháng 1 năm 1969.

V.

Đó vẫn là quan điểm chắc chắn của tôi ngày hôm nay. Nó không chỉ dựa trên kinh nghiệm cá nhân mà còn dựa trên nhiều thay đổi quan trọng đã xảy ra trong tình hình thế giới trong bốn năm qua.

Năm 1965, các lực lượng được Bắc Việt hỗ trợ đang trên đà tiếp quản quân sự miền Nam Việt Nam. Chỉ bằng cách gửi một số lượng lớn quân Mỹ mới có thể ngăn chặn điều này xảy ra. Người miền Nam Việt Nam yếu kém về mặt quân sự và mất tinh thần chính trị. Vào thời điểm đó, họ không thể bảo toàn cho mình quyền quyết định tương lai của chính mình. Trung Quốc Cộng sản gần đây đã tuyên bố ý định thực hiện học thuyết “chiến tranh giải phóng dân tộc”. Việc Khrushchev mất quyền lực vào tháng 10 trước đó và chuyến thăm Moscow của Chu Ân Lai vào tháng 11 năm 1964 đã đặt ra khả năng rất lớn là hai gã khổng lồ cộng sản này sẽ hợp tác với nhau để gieo rắc sự gián đoạn khắp các quốc gia kém phát triển trên thế giới. Indonesia, dưới thời Sukarno, thể hiện thái độ thù địch không thể xoa dịu đối với Malaysia và là một yếu tố gây bất ổn trong toàn bộ bức tranh Thái Bình Dương. Bản thân Malaysia, cũng như Thái Lan và Singapore, cần thời gian để các thể chế chính phủ của họ trưởng thành. Vào thời điểm đó, sự thờ ơ rõ ràng của Mỹ đối với những diễn biến ở châu Á có thể đã có tác động tai hại đến các quốc gia độc lập trong khu vực đó.

Trong bốn năm qua, tình hình đã thay đổi đáng kể. Lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam đã gia tăng về quy mô và trình độ. Tình hình chính trị ở đó đã trở nên ổn định hơn và các thể chế chính phủ mang tính đại diện hơn. Ở những nơi khác ở châu Á, điều kiện an ninh cao hơn tồn tại. Thất bại đẫm máu của cuộc đảo chính cộng sản ở Indonesia đã loại bỏ quyền lực của Sukarno và biến cuộc đối đầu với Malaysia thành sự hợp tác giữa hai nước. Chính phủ Thái Lan và Singapore đã tận dụng rất tốt thời gian 4 năm này để tăng cường sự ủng hộ của người dân. Úc và New Zealand đã tiến tới các mối quan hệ quốc phòng khu vực chặt chẽ hơn, trong khi Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đã thể hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế và cải thiện mức sống khiến những lời dạy của Chủ tịch Mao mất uy tín.

Ít nhất cũng có ý nghĩa tương đương là thực tế là kể từ năm 1965, quan hệ giữa Nga và Trung Quốc ngày càng xấu đi. Sự chia rẽ giữa hai cường quốc này là một trong những sự kiện mang tính bước ngoặt của thời đại chúng ta. Trớ trêu thay, việc họ cùng ủng hộ Hà Nội đã góp phần tạo nên sự bất hòa giữa họ. Nó đã tập trung vào sự cạnh tranh của họ để giành quyền lãnh đạo trong phe cộng sản. Các lập trường mâu thuẫn về sự ước muốn từ các cuộc đàm phán hòa bình ở Paris tạo thêm yếu tố gây chia rẽ. Trong một diễn biến tương tự, việc Liên Xô tăng cường viện trợ cho Triều Tiên đã khiến Bình Nhưỡng ít phụ thuộc hơn vào Trung Quốc. Cách mạng Văn hóa và sự tàn phá của Hồng vệ binh đã tạo ra ở Trung Quốc một tình trạng bất ổn nội bộ khiến các lực lượng quân sự của Trung Quốc hiện đang bận tâm. Các cuộc đụng độ biên giới gần đây trên sông Ussuri càng làm giảm khả năng Trung Quốc, trong tương lai gần, có thể dành sự quan tâm và nguồn lực của mình cho việc xuất khẩu cách mạng.

Những cân nhắc này được tăng cường bởi những cân nhắc khác. Có vẻ rõ ràng rằng sự cần thiết phải cống hiến nhiều tâm trí và phương tiện hơn cho các vấn đề cấp bách trong nước đòi hỏi chúng ta phải đặt ra giới hạn về thời gian cho sự tham gia của Việt Nam.

Một năm trước, chúng ta đã đặt ra giới hạn về số lượng cho sự tham gia này và đã làm như vậy mà không làm giảm hiệu quả của toàn bộ nỗ lực quân sự. Không thể phủ nhận rằng sẽ có nhiều vấn đề cố hữu trong việc thay thế lực lượng chiến đấu của Mỹ bằng lực lượng Nam Việt Nam. Nhưng bất kể những vấn đề này là gì, chúng đều phải được đối mặt. Không có cách nào đạt được mục tiêu của chúng ta là tạo ra những điều kiện cho phép miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai của họ trừ khi chúng ta bắt đầu và bắt đầu nhanh chóng giao cho họ trách nhiệm chính về việc bảo vệ của họ. Khả năng bảo vệ này không bao giờ có thể phát triển chừng nào chúng ta còn tiếp tục gánh chịu gánh nặng của trận chiến. Sớm hay muộn, sự thử thách phải là liệu quân đội miền Nam Việt Nam có phục vụ đủ tốt cho đất nước để đảm bảo sự sống còn của quốc gia hay không. Theo quan điểm của tôi, sự thử thách này phải được thực hiện sớm hơn chứ không phải muộn hơn.

Bước đầu tiên là thông báo cho Chính phủ miền Nam Việt Nam rằng chúng ta sẽ rút khoảng 100.000 quân trước cuối năm nay. Chúng ta cũng nên làm rõ rằng đây không phải là một hành động đơn lẻ mà là sự khởi đầu của một quá trình theo đó tất cả các lực lượng chiến đấu trên bộ của Hoa Kỳ sẽ rút khỏi Việt Nam vào cuối năm 1970. Tất nhiên, những thông tin tương tự cũng phải được cung cấp với các nước đang đóng góp lực lượng bảo vệ miền Nam Việt Nam.

Cần phải lường trước những phản đối gay gắt về mặt chính trị và quân sự đối với quyết định này. Sẽ có những lập luận cho rằng việc rút lui như vậy sẽ gây ra sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn và gây nguy hiểm cho an ninh của quân đội chúng ta và đồng minh. Tuy nhiên, những lập luận giống hệt nhau đã được đưa ra để phản đối quyết định hạn chế ném bom vào ngày 31 tháng 3 năm ngoái và chấm dứt hoàn toàn vào ngày 31 tháng 10. Chúng đã được chứng minh là vô căn cứ. Trên thực tế, không có phép thuật nào và không có lý do quân sự cụ thể nào về số lượng quân Mỹ hiện có ở miền Nam Việt Nam. Con số hiện tại chỉ thể hiện mức độ mà thang máy dừng lại.

Cũng cần lưu ý rằng các vị chỉ huy quân sự của chúng ta đã tuyên bố thẳng thừng kể từ mùa hè năm ngoái rằng không cần thêm quân Mỹ. Trong những tháng này, số lượng người miền Nam vũ trang phục vụ chính phủ đã tăng lên đáng kể và chúng ta đã nhận được những báo cáo đều đặn về thành tích được cải thiện của họ. Do đó, việc rút dần quân chiến đấu của Mỹ không chỉ phù hợp với sức mạnh quân sự tổng thể được tiếp tục mà còn giúp chứng minh những tuyên bố về hiệu quả chiến đấu ngày càng tăng của các lực lượng miền Nam Việt Nam.

Đồng thời với quyết định bắt đầu rút quân, nên ban hành lệnh cho các chỉ huy quân sự của chúng ta ngừng nỗ lực gây áp lực quân sự tối đa lên kẻ thù và thay vào đó tìm cách giảm mức độ chiến đấu. Những tuyên bố công khai của các viên chức chúng ta cho thấy rằng vẫn chưa có sự thay đổi nào trong chính sách cố gắng tối đa quân sự của chúng ta. Kết quả là mức độ thương vong cao của người Mỹ tiếp tục diễn ra mà không có bất kỳ tác động rõ rệt nào đến các cuộc đàm phán hòa bình ở Paris.

Trong khi lực lượng chiến đấu của chúng ta đang rút đi, chúng ta sẽ tiếp tục cung cấp cho các lực lượng vũ trang của chính quyền Sài Gòn sự hỗ trợ về hậu cần và nguồn năng lực không quân của chúng ta. Khi quá trình tiếp tục, chúng ta có thể đánh giá phản ứng của cả bạn và thù. Mô hình rút quân cuối cùng của chúng ta đối với đội quân không chiến đấu và nhân viên tham gia vận chuyển hàng không và hỗ trợ trên không có thể được xác định trên cơ sở các diễn biến chính trị và quân sự. Chừng nào chúng ta còn giữ được nguồn năng lực không quân ở miền Nam Việt Nam, với ưu thế hoàn toàn trên không, tôi không tin rằng việc giảm bớt áp lực quân sự do lực lượng mặt đất gây ra sẽ cho phép kẻ thù đạt được bất kỳ lợi ích đáng kể nào. Hơn nữa, còn có khả năng hổ tương giảm bớt hoạt động chiến đấu của Bắc Việt.

Quyết định của chúng ta dần dần chuyển giao gánh nặng chiến đấu cho lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam sẽ khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc Việt Nam phải đối mặt với một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Tin tức rằng người Mỹ đang bắt đầu rút quân lúc đầu có thể khiến họ tuyên bố chiến thắng. Nhưng ngay cả những tuyên bố ban đầu này ccó thể được dự kiến sẽ đượm vẻ e ngại. Theo quan điểm của tôi, từ lâu đã có bằng chứng đáng kể cho thấy Hà Nội lo ngại khả năng những người mà họ mô tả là “lực lượng bù nhìn” có thể, với sự hỗ trợ liên tục nhưng giảm dần của Mỹ, chứng tỏ có thể chống lại lực lượng cộng sản.

Khi lực lượng chiến đấu của Mỹ rút đi, Hà Nội sẽ phải đối mặt với nguy cơ sự hiện diện lâu dài và đáng kể của lực lượng không quân và hậu cần Mỹ để hỗ trợ lực lượng chiến đấu của miền Nam Việt Nam, lực lượng này sẽ không ngừng nâng cao hiệu quả. Giải pháp thay thế duy nhất của Hà Nội là sắp xếp, một cách ngầm hoặc rõ ràng, để cùng nhau rút tất cả các lực lượng bên ngoài. Trong cả hai trường hợp, sự cân bằng lực lượng đạt được sẽ tránh được bất kỳ nguy cơ tắm máu nào mà một số người lo sợ có thể xảy ra sau khi chúng ta rút quân.

Một khi việc rút quân chiến đấu của chúng ta bắt đầu, chính quyền Sài Gòn, có lẽ là lần đầu tiên, sẽ thừa nhận rằng các mục tiêu của Mỹ không đòi hỏi sự duy trì quyền lực của bất kỳ một nhóm người miền Nam Việt Nam nào. Chừng nào chúng ta tỏ ra sẵn sàng ở lại vô thời hạn thì không có áp lực nào lên Sài Gòn nhằm giảm bớt sự kiểm soát của những người hiện đang nắm giữ các vị trí quyền lực bằng cách nhường chỗ cho các cá nhân đại diện cho các thành phần dân tộc chủ nghĩa khác trong xã hội miền Nam Việt Nam.

Theo đó, tôi dự đoán sẽ không có tác động bất lợi nào đến các cuộc đàm phán ở Paris từ việc công bố và thực hiện chương trình rút quân của Mỹ. Thay vào đó, tôi thấy trước việc tạo ra những hoàn cảnh để những cuộc thương lượng thực sự có thể diễn ra giữa những người Việt Nam có mặt tại Paris. Không còn nghi ngờ gì nữa, Bắc Việt và Mặt trận Dân tộc Giải phóng sẽ làm như vậy với hy vọng rằng bất kỳ giải pháp chính trị nào sẽ đưa họ tới sự thống trị cuối cùng ở miền Nam Việt Nam. Nhưng những hy vọng và kỳ vọng của họ nhất thiết sẽ phải nhường chỗ cho những thực tế chính trị, và những thực tế chính trị này, trong phân tích cuối cùng, đều nằm ngoài tầm kiểm soát và tầm hiểu biết của chúng ta. Hơn nữa, về cơ bản chúng không phải là việc của chúng ta. Một triệu người miền Nam Việt Nam thuộc các thành phần khác nhau của lực lượng vũ trang, với sự hỗ trợ, không vận và hàng không của Mỹ, sẽ có thể, nếu họ có ý chí, ngăn chặn việc áp đặt bằng vũ lực một chế độ do Hà Nội kiểm soát. Nếu họ thiếu ý thức hoặc thiếu mục đích quốc gia, chúng ta không bao giờ có thể áp đặt điều đó lên họ.

Về lâu dài, an ninh của khu vực Thái Bình Dương sẽ phụ thuộc vào khả năng của các quốc gia trong việc đáp ứng nhu cầu ngày càng chính đáng của người dân nước họ. Không có sức mạnh quân sự nào mà chúng ta sử dụng có thể mang lại cho họ sự ổn định nội bộ hoặc sự chấp nhận của quần chúng. Ở Đông Nam Á và những nơi khác trong các khu vực kém phát triển hơn trên thế giới, khả năng hiểu biết và kiểm soát các lực lượng cơ bản đang diễn ra của chúng ta rất hạn chế. Chúng ta có thể tư vấn, có thể thúc giục, có thể cung cấp viện trợ kinh tế. Nhưng sức mạnh quân sự của Mỹ không thể xây dựng nên các quốc gia, cũng như nó không thể giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội mà chúng ta đang phải đối mặt ở quê nhà.

Vì vậy, đây là trường hợp lịch sử về sự tiến hóa tư duy của một cá nhân về Việt Nam. Trong suốt thời gian này, thật khó để bám sát thực tế vì những dự đoán lạc quan liên tục xuất hiện rằng nhiệm vụ của chúng ta đã gần kết thúc và những thời điểm tốt đẹp hơn đang đến gần hoặc ngay bên kia ngọn đồi kế tiếp.

Chúng ta không thể bỏ qua sự thật rằng đây là một cuộc chiến tranh giới hạn, nhằm mục đích hạn chế và sử dụng sức mạnh hạn chế. Theo tôi, các lực lượng mà chúng ta hiện đã triển khai cũng như chi phí về nhân lực và vật lực mà chúng ta đang gánh chịu đã trở nên không tương xứng với mục đích của chúng ta. Quy mô nỗ lực quân sự hiện nay không thể đưa chúng ta đến gần hơn với chiến thắng có ý nghĩa. Nó chỉ có thể tiếp tục tàn phá nông thôn và kéo dài nỗi đau khổ của người dân Việt Nam với mọi thuyết phục chính trị.

Trừ khi chúng ta có trí tưởng tượng và lòng can đảm để đi theo một con đường khác, tôi tin chắc rằng một năm nữa chúng ta sẽ không ở một vị thế nào tốt hơn và không khác gì so với hiện nay.

Với tỷ lệ thương vong hiện nay, sẽ có thêm 10.000 cậu bé Mỹ thiệt mạng.

Chúng ta nên giảm thương vong cho người Mỹ bằng cách giảm lực lượng chiến đấu của Mỹ. Chúng ta nên làm như vậy theo một lịch trình xác định và với một điểm kết thúc xác định.

Hãy bắt đầu đưa người của chúng ta về nhà—và bắt đầu ngay bây giờ.

CLARK M. CLIFFORD, Bộ Trưởng Quốc Phòng, 1968–69; Ủy ban Đặc biệt, 1946–50, và Cố Vấn tổng thống Presidents Kennedy và Johnson

 
 

Hồ Lạc Hồng dịch

___________________________________________
(1) A Vietnam Reappraisal_The Personal History of One Man’s View and How It Evolved – Clark M. Clifford_Foreign Affairs_July 1969