CUỘC THỬ THÁCH ĐÔNG NAM Á

Khu Vực Tiết Lộ Gì Về Tương Lai Thi Đua Mỹ - Trung Quốc[1]


David Shambaugh - Foreign Affairs - December 17, 2020
 
 
 

Khi Tổng thống đắc cử Joe Biden và chính quyền sắp tới của ông bắt đầu đưa ra chiến lược nhằm quản lý sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, họ cần phải chú ý đến Đông Nam Á. Cuộc thi đua với Trung Quốc hiện đang diễn ra trên toàn thế giới và trên tất cả các lĩnh vực chức năng — ngoại giao, thương mại, an ninh, hoạt động ảnh hưởng, hệ tư tưởng, giá trị, giáo dục, khoa học và công nghệ, v.v. Sự cạnh tranh trong các lĩnh vực này ở Đông Nam Á đại diện cho một mô hình thu nhỏ và báo trước về cách nó có thể phát triển ở những nơi khác trên thế giới. Kết quả ở đó ít nhất sẽ ảnh hưởng đến phần còn lại của khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương rộng lớn, vốn ngày càng trở thành trung tâm trong các vấn đề quốc tế.

Trong những năm gần đây, một số quốc gia Đông Nam Á dường như đang “chia rẽ” và thiết lập quan hệ chặt chẽ hơn với Bắc Kinh. Nhiều chuyên gia và quan chức trong khu vực và các nơi khác phát hiện ra sự thay đổi cán cân quyền lực và ảnh hưởng, một yếu tố có lợi cho Trung Quốc hơn Hoa Kỳ. Nhưng các nhà quan sát không nên phóng đại xu hướng này hoặc mong đợi nó sẽ tiếp tục vô thời hạn. Trung Quốc vẫn chưa thống trị Đông Nam Á và chắc chắn sẽ không làm như vậy trong tương lai. Với các chính sách và cách tiếp cận đúng đắn, Washington có thể đối trọng với Bắc Kinh trong khi thúc đẩy lợi ích của chính họ và đóng góp vào sự ổn định, an ninh và phát triển trong khu vực.

TẠI SAO VẤN ĐỀ ĐÔNG NAM Á

Thi đua, cạnh tranh cao tại Đông Nam Á. Đó là một khu vực đông dân, kéo dài 1,7 triệu dặm vuông: hơn 3.000 dặm từ đông sang tây và hơn 2.000 dặm từ Bắc xuống Nam. Khu vực này bao gồm 11 quốc gia, trong đó 10 quốc gia là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Với tổng dân số 636 triệu người, Đông Nam Á là một trong những khu vực đông đúc và tập trung dân cư nhất trên hành tinh. Kích thước dân số học phù hợp với quy mô của sự đa dạng tôn giáo và văn hóa của nó, vì 240 triệu người Hồi giáo, 140 triệu Phật tử, 130 triệu Cơ đốc giáo và bảy triệu người theo đạo Hindu sống ở Đông Nam Á. Đây cũng là một khu vực đa nguyên về chính trị, có năm loại hệ thống chính trị khác nhau, từ các quốc gia đảng phái theo chủ nghĩa Lenin đến các thể chế hoàn toàn dân chủ. Về kinh tế, Đông Nam Á đã trải qua tốc độ tăng trưởng nhanh nhất so với bất kỳ khu vực nào trên thế giới kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Ngày nay, tập hợp các thành viên của nó tạo thành nền kinh tế lớn thứ sáu trên thế giới, với tổng GDP danh nghĩa là 2,8 nghìn tỷ USD vào năm 2018.

Tầm quan trọng chiến lược của khu vực dựa trên cơ sở địa lý. Eo biển Malacca và Biển Đông là những tuyến đường biển đi qua nhiều nhất trên thế giới; hàng năm, khoảng 50.000 tàu, 40% giao dịch hàng hóa của thế giới và 25% nguồn cung cấp dầu của thế giới đi qua chúng. Điều này giúp giải thích sự nhạy cảm về an ninh ngày càng tăng trong khu vực. Đặc biệt, việc Trung Quốc xây dựng các tiền đồn quân sự ở Biển Đông đã thúc đẩy cảm giác nguy hiểm và tính linh hoạt chiến lược. Kết quả một phần là trong những năm gần đây, mọi quốc gia ASEAN ngoại trừ Campuchia và Lào đều tăng chi tiêu cho mua sắm quốc phòng và quân sự.

ASEAN đã kỷ niệm 50 năm thành lập vào năm 2017. Mặc dù thường xuyên bị chỉ trích vì những thiếu sót của mình, nhưng tổ chức này vẫn có nhiều điều đáng tự hào - đặc biệt là sự vắng bóng của chiến tranh giữa các thành viên kể từ khi cuộc xung đột Campuchia-Việt Nam kết thúc vào giữa những năm 1990s. ASEAN cũng đã khá thành công trong việc giải quyết các thách thức an ninh xuyên quốc gia như cướp biển, buôn người, buôn lậu, tội phạm có tổ chức, đại dịch và ô nhiễm môi trường. Tổ chức tự hào về “Phương thức ASEAN”: các quyết định đạt được bằng sự đồng thuận, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và hợp tác tự nguyện. Những chuẩn mực đó đã giúp gắn kết nhóm nhưng cũng cản trở nghiêm trọng khả năng của tổ chức trong việc giải quyết các vấn đề khó khăn và hành động khi cần thiết. Một điểm yếu đặc biệt rõ ràng là không có khả năng làm trung gian hòa giải các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông hoặc ngăn chặn hoạt động xây dựng đảo quân sự hóa của Trung Quốc ở những vùng biển đó.

Khu vực này không còn xa lạ với sự cạnh tranh giữa các cường quốc. Kết quả là, các quốc gia của nó được thực hành trong nghệ thuật phòng bị chiến lược và có khuynh hướng trung lập và không liên kết, do lịch sử thuộc địa của họ. Mặt khác, một số quốc gia Đông Nam Á đã lựa chọn chiến thuật phòng thủ hiện thực truyền thống, áp dụng các chính sách hình thành liên minh hoặc liên kết chiến lược với các cường quốc lớn hơn. Kể từ giữa những năm 1990, ASEAN đã áp dụng cách tiếp cận chủ động và bao trùm trong việc thu hút các cường quốc bên ngoài tham gia các cuộc đối thoại và gặp gỡ đa phương. Một số nhà quan sát chỉ trích các diễn đàn như vậy chỉ là “cửa hàng đối thoại” (talk shops), thực hiện được ít và tạo ra phần lớn các thỏa thuận không ràng buộc. Tuy nhiên, trong chừng mực các cơ chế này nhằm mục đích trở thành các biện pháp xây dựng lòng tin nhằm ràng buộc các cường quốc chặt chẽ hơn với khu vực, tuy nhiên, chúng ít nhất phải được coi là thành công về mặt hình thức.

MẮC KẸT Ở GIỮA

Mặc dù sự cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đã bùng phát một thời gian ở Đông Nam Á, nhưng sự điều động giữa Washington và Bắc Kinh đã gia tăng đáng kể sau khi Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đưa ra chính sách “xoay trục” sang châu Á vào năm 2011, điều này đã kích thích Bắc Kinh gia tăng hiện diện riêng trong khu vực. Sự vận động chiến lược giữa hai đối thủ tiếp tục phát triển trong suốt những năm Trump làm tổng thống. Về phần mình, Trung Quốc đã tăng cường can dự vào khu vực, đặc biệt là thông qua Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) được ca ngợi, nhằm tìm cách mở rộng đáng kể các liên kết kinh tế và thương mại vốn đã có sẵn của Bắc Kinh. Trung Quốc cũng tăng cường các hoạt động tiếp cận ngoại giao, giao lưu văn hóa và tạo ảnh hưởng trong toàn khu vực. Thách thức đối với tất cả các nước trong khu vực là điều hướng mối quan hệ ngày càng chặt chẽ với Bắc Kinh mà không trở nên quá phụ thuộc. Như một quan chức ngoại giao cấp cao của Thái Lan đã nói với tôi tại Bangkok: “Đã quá muộn để người Thái chúng tôi thoát khỏi vòng tay của Trung Quốc — chúng tôi chỉ đang cố gắng để không bị nó làm cho mê muội” (It is too late for us Thais to escape China’s embrace—we are just trying to keep from being smothered by it.)

Hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đều nhận thấy lợi ích thiết thực trong việc xích lại gần Bắc Kinh, và cho đến nay họ chưa nhận thấy hậu quả thực sự nào từ Washington khi làm như vậy. Như một quan chức cấp cao trong Bộ Ngoại giao Malaysia giải thích với tôi, “Chúng tôi không có cách tiếp cận ý thức hệ với Trung Quốc, chỉ mang tính thực dụng và giao dịch. Trung Quốc cần bạn bè và chúng tôi có lập trường là bạn. Cái giá để chúng ta đến gần Trung Quốc là gì? Mỹ có thể làm gì về điều này? ”

Xu hướng dồn về phía Trung quốc (bandwagoning) này có thật và có ý nghĩa - nhưng không nên phóng đại. Thật vậy, một số yếu tố có thể góp phần vào sự đảo ngược của nó trong những năm tới. Thứ nhất, Bắc Kinh hoàn toàn có khả năng sử dụng quá nhiều và quá tay bằng cách trở nên quá tham lam và bóc lột. Bằng chứng về hành vi này đã có thể được tìm thấy trong các tương tác của Trung Quốc với Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Ngay cả ở quốc gia khách hàng của Trung Quốc là Campuchia, có sự bất bình trong xã hội về làn sóng đầu tư của Trung Quốc vào các giao dịch mua đất, các thánh địa cờ bạc và các dự án xây dựng. Chính phủ Indonesia rất lo ngại về 30.000 lao động Trung Quốc trong nước cũng như việc Trung Quốc khai quật khoáng sản từ Kalimantan và Sumatra. Năm 2011, Myanmar đã từ bỏ việc xây dựng một con đập do Trung Quốc tài trợ trên sông Irrawaddy đã gây ra sự lo lắng về những rủi ro mà nó gây ra cho môi trường và khiến hàng chục nghìn dân làng phải di dời. Tương tự như vậy, vào năm 2017, Malaysia đã đóng băng hầu hết các dự án BRI của mình vì lo ngại về các khoản nợ và chi phí quá cao, tham nhũng, cơ sở hạ tầng không cần thiết và chủ quyền bị xâm phạm. Những trường hợp như vậy phản ánh sự thiếu chú ý và thiếu hiểu biết của Bắc Kinh về tình cảm địa phương, và những phản ứng tương tự dường như có thể xảy ra ở những nơi khác.

Tai tiếng của Bắc Kinh là kết quả của việc các quan chức và nhà ngoại giao Trung Quốc sống trong bong bóng tuyên truyền và tiếng vang từ các nghị viện của riêng họ, không quan tâm đến cách nhìn nhận của Trung Quốc trong khu vực. Các cơ quan tình báo của Bắc Kinh cũng có hiểu biết đáng ngờ về khu vực, vì họ có xu hướng tập trung vào giới ưu tú thương mại và chính trị và cộng đồng người gốc Hoa hơn là tìm hiểu những nghi ngờ và bất mãn của địa phương, xã hội dân sự, xu hướng chính trị, chính trị sắc tộc và những đặc thù phức tạp của xã hội Đông Nam Á.

Hầu hết người Đông Nam Á đều có bản sắc dấu ấn sâu xa hậu thuộc địa; họ nhanh chóng phản ứng với những quyền lực lớn hơn đang tìm cách thiết lập các mối quan hệ bất đối xứng và hành động với thái độ kiêu ngạo. Họ vẫn còn nguyên vẹn ký ức về các chính sách và hành động lật đổ của Trung Quốc trong khu vực trong những năm 1960 và 1970, khi Bắc Kinh tích cực hỗ trợ các cuộc nổi dậy của cộng sản ở mọi quốc gia trong khu vực. Và các chính phủ và công chúng Đông Nam Á vẫn nhạy cảm sâu sắc với sự ủng hộ lịch sử của Trung Quốc dành cho các thành viên cộng đồng người gốc Hoa trong khu vực — đặc biệt là ở Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam, nơi họ ngày càng trở thành mục tiêu trong các hoạt động gây ảnh hưởng của Bắc Kinh.

MỘT SỨC MẠNH KHÔNG ĐƯỢC CẢM KÍCH

Khi Trung Quốc mở rộng dấu chân của mình trong khu vực, nhiều nhà quan sát cho rằng sức mạnh và ảnh hưởng của Mỹ đang yếu đi và giảm đi nhanh chóng. Đây là một nhận thức sai lầm. Dấu ấn về văn hóa, kinh tế và an ninh của Hoa Kỳ trên khắp Đông Nam Á vẫn còn rất lớn. Trong hầu hết các kích thước, nó thậm chí còn lớn hơn của Trung Quốc.

Chắc chắn, sự chú ý ngoại giao không chặt chẽ của Washington là một trong những liên kết yếu nhất đối với vị thế của Hoa Kỳ trong khu vực, vì các quan chức cấp cao của Hoa Kỳ hiếm khi xuất hiện trong khu vực. Nhưng trong các lĩnh vực khác, Hoa Kỳ sở hữu sức mạnh toàn diện. Sự hiện diện quân sự và mạng lưới các đối tác an ninh của nó hoạt động rộng khắp và sâu rộng. Quyền lực mềm của nó - đặc biệt trong văn hóa và giáo dục đại chúng - vẫn mạnh mẽ. Sự hiện diện thương mại của nó lâu đời và rất lớn: hơn 4.200 công ty Hoa Kỳ hiện đang hoạt động ở Đông Nam Á. Tổng hợp lại, các nước ASEAN hiện là đối tác thương mại lớn thứ tư của Hoa Kỳ trên toàn thế giới, chiếm khoảng 350 tỷ đô la thương mại vào năm 2018.

Con số đó không sánh ngang với 587,8 tỷ đô la thương mại của Trung Quốc với các nước ASEAN vào năm 2018, nhưng nó hầu như không đáng kể. Ấn tượng hơn và ít được đánh giá cao hơn là lượng đầu tư trực tiếp tích lũy của Hoa Kỳ vào các nước ASEAN, hiện đạt tổng cộng 329 tỷ USD - nhiều hơn cả Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cộng lại. Theo ASEAN, trên cơ sở hàng năm, đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào khu vực này gần như gấp đôi so với Trung Quốc: 24,

9 tỷ USD và 13,7 tỷ USD vào năm 2017, theo ASEAN. Khi vị trí của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á được kiểm tra thực nghiệm và đo lường một cách toàn diện, các lợi thế so sánh và sức mạnh nội tại của Washington trở nên rõ ràng. Hơn nữa, các cuộc điều tra dư luận cho thấy một nguồn nhận thức tích cực về Hoa Kỳ trong số nhiều công chúng Đông Nam Á (mặc dù, song song với xu hướng toàn cầu, đã giảm đáng kể trong thời Trump). Tuy nhiên, sức mạnh của vị thế của Hoa Kỳ sẽ là một điều ngạc nhiên đối với bất kỳ ai chỉ sử dụng phương tiện truyền thông khu vực, điều này kéo dài câu chuyện phổ biến rằng Trung Quốc là cường quốc thống trị ở Đông Nam Á. Trên thực tế, Trung Quốc là một cường quốc được đánh giá quá cao và Hoa Kỳ là một quốc gia bị đánh giá thấp hơn.

KHÔNG LOẠI WASHINGTON RA NGOÀI

Tất nhiên, sẽ là sai lầm nếu đánh giá quỹ đạo có thể có của khu vực nếu chỉ xem xét Bắc Kinh và Washington. ASEAN và các quốc gia thành viên riêng lẻ có khả năng hiệu chỉnh lại, ở một mức độ nào đó, các mối liên kết bên ngoài của họ. ASEAN không phải là một bên thụ động; nó có cơ quan riêng của mình và trong lịch sử đã chứng tỏ mình rất giỏi trong việc điều động và bảo hiểm rủi ro. Câu hỏi đặt ra lần này là: Với sức mạnh và ảnh hưởng ngày càng tăng của Bắc Kinh trong khu vực và chất lượng được Washington chú ý nhiều lần, liệu ASEAN có thể duy trì sự tự chủ và linh hoạt của mình — hay Bắc Kinh sẽ dần dần xói mòn nó?

Các cường quốc tầm trung ở châu Á có thể giúp ASEAN tránh bị rơi vào gọng kìm giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Đặc biệt, Nhật Bản là một nước đóng vai trò quan trọng trong kinh tế và quyền lực mềm ở Đông Nam Á, và Tokyo gần đây đang tăng cường hợp tác an ninh với một số quốc gia ASEAN. Ấn Độ cũng đang nhanh chóng mở rộng vị thế của mình ở Đông Nam Á, tương xứng với chính sách “Hành động hướng Đông” của Thủ tướng Narendra Modi. Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in cũng đã công bố "chính sách hướng Nam" cho đất nước của ông trong khu vực. Với sự gần gũi và liên kết thương mại của Australia với khu vực, Canberra tự coi mình có mối quan hệ đặc biệt với nhiều thành viên ASEAN. Ngay cả Nga cũng đang cố gắng đóng một vai trò lớn hơn trong khu vực. Những tác nhân này càng làm phức tạp thêm bàn cờ khu vực và làm cho khả năng thống trị của Trung Quốc giảm đi.

Do đó, bất chấp sự thay đổi lực hấp dẫn rõ ràng của Đông Nam Á đối với Trung Quốc, kết cục vẫn chưa được đúc kết. Một trong những lợi thế so sánh của Hoa Kỳ trong cuộc cạnh tranh với Trung Quốc (ở Đông Nam Á và các nơi khác) là chính Trung Quốc. Sự bắt nạt ngông cuồng của Bắc Kinh, ngoại giao công khai kiểu “chiến binh sói”, bong bóng tuyên truyền, không chú ý đến các mối quan tâm của địa phương và không có khả năng đưa ra những lời chỉ trích một cách xây dựng, tất cả đều nhằm suy yếu sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong nhiều trường hợp, điều tốt nhất mà Washington nên làm là đơn giản để Bắc Kinh quá khích và xa lánh những người khác. Nếu chính quyền Biden đặt khu vực trở thành ưu tiên và liên kết lại với mục đích và tính nhất quán (đó là những gì người Đông Nam Á tìm kiếm), thì Trung Quốc có thể trở thành đối trọng - và người Đông Nam Á có thể tận hưởng những gì tốt nhất của cả hai thế giới.

DAVID SHAMBAUGH is Gaston Sigur Professor of Asian Studies, Political Science, and International Affairs, and Director of the China Policy Program at George Washington University. This article is adapted from his book Where Great Powers Meet: America and China in Southeast Asia (Oxford University Press, 2020). Copyright © Oxford University Press, 2020.

 
 

Hồ Lạc Hồng dịch

___________________________________________
[1] The Southeast Asian Crucible - What the Region Reveals About the Future of U.S. - Chinese Competition By David Shambaugh - December 17, 2020