đĩa bay ở kushiro

Murakami Haruki
 
 
 

Murakami Haruki (Thôn Thượng Xuân Thụ 村上春樹) là nhà văn kiêm dịch giả Nhật Bản sinh ngày 12-01-1949 tại Kyoto. Ông lớn lên ở Kobe và tốt nghiệp đại học Waseda ở Tokyo. Sau khi ra trường ông mở một quán Bar chơi nhạc Jazz tại Tokyo trong bảy năm. Tiểu thuyết đầu tay của ông Hear the Wind Sing viết năm 1979 được giải Văn học Gunzou cho người mới viết văn. Quyển này cùng quyển Pinball 1973 (1980) và A Wild Sheep Chase là quyển ông được giải thưởng Noma cho những nhà văn mới tạo thành bộ Trilogy of the Rat. Ông cũng là tác giả của Hard-Boiled Wonderland and the End of the World (1985), Norvegian Wood (1987), Dance Dance Dance (1998), South of the Border, West of the Sun (1992) và The Elephant Vanishes (1993). Năm 1991 Murakami cùng vợ đến Mỹ ở bốn năm, tại đây ông dạy ở Princeton và viết The Wind-Up Bird Chronicle(1994-1995). Quyển tiểu thuyết này được giải Yomiuri là giải văn chương cao quí của Nhật Bản mà Yukio Mishima, Kenzaburo Oe và Kobo Abe đã từng vinh hạnh thắng giải. Sau trận động đất Hanshin và vụ tấn công hơi độc ở dưới tầng xe điện ngầm Tokyo năm 1995 Haruki Murakami trở về Nhật. Ông phỏng vấn các nạn nhân và những thành viên của giáo phái Aum Shinrikyo. Từ các cuộc phỏng vấn này ông đã viết hai quyển tiểu thuyết tại Nhật Bản mà quyển thứ hai, The Place That Was Promised (1998) thắng giải Kawabata Takeo Academic Award. Hai quyển này đã đươc xuất bản Anh ngữ kết hợp thành bộ Underground (2000). Sau đấy Murakami viết Sputnik Sweetheart (1999), after the quake (2002) và Kafka on the Shore (2005). Những tuyển tập truyện ngắn gần đây là Blind Willow, Sleeping Woman (2006), và quyển tiểu thuyết mới nhất của ông After Dark, được in năm 2007. Ông lại được vinh dự thắng giải Frank O’Connor International Short Story Award (Ireland, 2006), giải Frank Kafka (Czech, 2006) và giải Asahi Prize (Nhật Bản, 2006). Murakami cũng đã có nhiều công trình dịch thuật các tác giả Hoa Kỳ sang Nhật ngữ như F. Scott Fitzgerald, Raymond Carver, John Irvin, Raymond Chandler và nhiều tác giả khác. Tác phẩm của ông cũng đã được dịch sang 40 thứ tiếng trên thế giới. đĩa bay ở kushiro là một truyện ngắn trong tập truyện after the quake xuất bản năm 2002.


Suốt năm ngày cô ta ngồi trước TV, nhìn trừng trừng những nhà băng, bệnh viện sụp đổ, toàn khu buôn bán hỏa hoạn, đường sắt và đường cao tốc thiệt hại. Cô không nói tiếng nào. Miệng ngậm câm vùi vào đống gối sô pha, cô không trả lời khi Komura nói với cô. Cô cũng không lắc đầu hay gật đầu. Komura không chắc liệu những lời nói của mình có đến với cô hay không.
Vợ của Komura ở tận phía bắc Yamagata, anh cũng biết vợ mình không hề có bạn bè hay bà con gì bị thương tổn ở Kobe. Nhưng cô ta như mọc rễ trước máy truyền hình từ sáng đến tối. Những khi có mặt, anh không hề thấy cô ta ăn uống ngay cả vào phòng vệ sinh. Trừ những khi bấm vào remote để đổi băng tần, thật khó làm cô ta di chuyển chân tay.
Komura phải tự làm lấy thức ăn thức uống rồi đi làm. Khi anh trở về nhà vào buổi chiều, anh tự lo lấy bữa ăn tối với bất kỳ thứ gì anh tìm thấy trong tủ lạnh và ăn một mình. Vợ anh vẫn ngồi nhìn chăm chú những tin cuối cùng khi anh đã chìm vào giấc ngủ. Bức tường đá im lặng quây quanh cô ta. Komura chịu thua không làm gì được.
Ngày thứ sáu tức Chủ nhật khi đi làm trở về nhà, vợ anh biến mất.

***
Komura là người bán hàng của một trong những cửa hàng bán trang bị hi-fi đặc biệt lâu đời Akihabara “Phố điện tử” ở Tokyo. Anh chỉ bán món hàng hạng nhất và kiếm tiền thưởng đáng kể bất kỳ lúc nào mình đứng bán. Hầu hết khách hàng của anh là bác sĩ, thương gia độc lập giàu có và những viên chức trong thành phố. Anh làm việc này tám năm và gặt hái được lợi tức xứng đáng ngay từ ban đầu. Nền kinh tế thịnh vượng, giá cả địa ốc tăng cao, nước Nhật như tràn ngập trong tiền bạc. Ví bóp muốn bung ra vì những tờ bạc giấy mười ngàn yen, và mọi người như đang chết trong sự tiêu pha. Những món hàng đắt nhất là những thứ được bán hết trước.
Komura người dong dỏng cao, ăn diện đúng mốt. Anh tốt với mọi người. Trong những năm độc thân anh đã hẹn hò vô số phụ nữ. Nhưng sau khi lập gia đình ở tuổi hai mươi sáu, anh thấy lòng ham muốn phiêu lưu tình dục một cách đơn giản và bí ẩn biến mất. Anh không ngủ với bất cứ người đàn bà nào ngoại trừ vợ anh suốt năm năm lập gia đình. Không phải anh không có cơ hội nhưng anh mất hoàn toàn sự thích thú trong việc ngoại tình và qua đêm với người đàn bà khác. Anh thích về nhà sớm, thoải mái ăn cơm với vợ, nói chuyện vãn với cô ta ở sô pha một chốc rồi vào giường và làm tình. Đó là thứ mà anh muốn. Bạn và đồng nghiệp của Komura đã rối trí với cuộc hôn nhân của anh. So với dáng vẻ sáng sủa, dễ nhìn kiểu cổ điển, vợ anh dường như tầm thường hơn. Cô ta thấp người, tay mập mạp và bề ngoài ù lì lãnh đạm. Và không phải chỉ có thân xác, mặt nhân cách cô cũng không có gì thu hút cả. Hiếm khi thấy cô ta nói hay biểu hiện tình cảm của mình.
Tuy thế, không hiểu tại sao Komura luôn thấy sự căng thẳng tan biến khi anh và vợ cùng dưới mái nhà; và chỉ có lúc ấy anh mới thấy thực sự thoải mái. Anh ngủ ngon với cô, không hề bị những cơn mơ lạ lùng quấy nhiễu như trước kia. Sự cương cứng đúng mức; đời sống tình dục ấm cúng. Anh không còn phải lo lắng về cái chết, bệnh hoa liễu hay sự vô cùng của vũ trụ.
Vợ Komura, ngược lại không thích sự ồn ào của Tokyo và nhớ nhung quê nhà Yamagata. Cô ta nhớ cha mẹ, hai người chị và cô về thăm họ bất kỳ lúc nào cô cần. Cha mẹ cô quản lý một lữ quán phát đạt và tình trạng tài chính thoải mái. Cha cô luôn nhớ đến cô con gái út và sẳn sàng mua cho cô vé máy bay khứ hồi. Nhiều lần về nhà, Komura thấy vợ ra đi chỉ để một tờ giấy trên bàn nhà bếp viết rằng trở về nhà thăm cha mẹ vài ngày. Anh không bao giờ phản đối. Chỉ chờ cô trở về và cô trở về sau một tuần hay mười ngày với tâm trạng vui vẻ.
Nhưng lá thư mà vợ anh viết khi cô ta biến mất năm ngày sau trận động đất thì khác: Tôi không bao giờ trở lại, cô ta viết rồi giải thích hết sức đơn giản nhưng cũng thật rõ ràng tại sao cô không thể sống với anh ta thêm nữa: Vấn đề ở chổ anh không cho tôi bất kỳ thứ gì, cô viết, Hay nói rõ hơn anh không có gì bên trong mà anh có thể cho tôi. Anh tốt, tử tế và đẹp trai nhưng sống với anh như sống với mớ không khí. Tuy vậy, không phải hoàn toàn là lỗi của anh. Có hàng đống phụ nữ sẽ yêu anh. Nhưng đừng gọi tôi. Hãy bỏ đi tất cả những thứ quỉ quái mà tôi để lại.
Thực ra thứ cô ta để lại không nhiều nhỏi gì. Dù, quần áo, giày dép, tách café, máy sấy tóc đã ra đi với cô ta. Vợ anh ắt phải đóng gói những thứ này gửi đi sau khi anh đi làm ban sáng. Chỉ có thứ bỏ lại mà cô gọi là “thứ quỉ quái” là chiếc xe đạp và vài quyển sách. Bộ CD Beatles và Bill Evans mà Komura sưu tập từ ngày còn độc thân cũng biến mất.
Ngày kế Komura cố gọi điện thoại cho cha mẹ vợ ở Yamagata. Bà mẹ vợ trả lời và bảo Komura rằng cô ta không muốn nói chuyện với anh. Giọng bà ta có phần nào tỏ ra đáng tiếc cho việc đã xãy ra. Bà ta cũng nói rằng sẽ cố gửi sớm cho anh những đơn từ cần thiết và mong rằng anh ký đóng dấu và gửi ngay trở lại tức thì.
Komura trả lời rằng anh có thể không có khả năng gửi trả lại “tức thì”. Việc này hết sức quan trọng thế nên anh cần suy nghĩ lại.
“Anh muốn suy nghĩ bao lâu anh tùy anh, nhưng tôi biết không thay đổi gì được đâu.” Bà mẹ vợ bảo như thế.
Bà ta có lý, Komura tự bảo. Không cần biết anh suy nghĩ và chờ đợi thế nào, mọi điều không thể như trước được nữa. Anh chắc chắn như vậy.
Ngay sau khi anh gửi giấy tờ đi với chữ ký và đóng dấu hẳn hoi, Komura xin nghỉ phép một tuần lễ. Người chủ của anh sau khi biết được sơ về việc gì xãy ra và tháng hai cũng là thời kỳ bán buôn chậm chạp trong năm đồng ý ngay cho Komura nghỉ phép. Ông ta muốn nói gì đó với Komura nhưng cuối cùng làm thinh.
Sasaki, một đồng nghiệp của anh đến gặp anh vào buổi ăn trưa bảo, “tôi nghe anh xin nghỉ phép. Có tính đi đâu chưa?”
“Tôi không biết,” Komura nói. “Tôi nên làm gì đây?
Sasaki nhỏ hơn Komura ba tuổi và còn độc thân. Anh ta vóc dáng mảnh dẽ, tóc cắt ngắn và mang kính tròn gọng vàng. Nhiều người nghĩ rằng anh ta nói nhiều và có vẻ ươn gàn, nhưng anh ta không có vấn đề gì với một người dễ chịu như Komura.
“Với thời gian dài nghỉ quái quỉ này, tại sao không làm một chuyến du lịch?”
“Hay đó.” Komura nói.
Lau kính với chiếc khăn tay, Sasaki dò xét Komura trong khi nhìn anh chăm chú như cố tìm ra ần số.
“Có bao giờ đến Hokkaido chưa?” Sasaki hỏi.
“Chưa bao giờ.”
“Muốn đến đó không?”
“Sao hỏi như vậy?”
Sasaki khép mắt lại một tí và hắng giọng. “Nói thật với anh, tôi có một gói nhỏ muốn gửi nó đi Kushiro và hi vọng anh mang đến đó giùm. Tôi vô cùng biết ơn và sẳn sàng mua cho anh vé khứ hồi luôn cả việc mướn khách sạn ở đó.”
“Một gói nhỏ?”
“Như thế này,” Sasaki nói làm dấu bằng tay một khối vuông cở bốn inches. “Không có gì nặng nề cả.”
“Cần làm gì thêm không?”
Sasaki lắc đầu. “Không cần gì,” anh ta nói. “Hoàn toàn cá nhân, tôi lại không muốn người ta biết, đó là lý do tại sao tôi không gửi bưu điện. Tôi chỉ muốn anh tự tay giao dùm nếu có thể được. Thực ra tôi muốn tự tay mình làm nhưng lại không có thì giờ bay đến Hokkaido.”
“Nó quan trọng lắm à?”
Anh ta nhíu nhẹ môi gật đầu. “Không phải thứ dễ vỡ và cũng không phải thứ ‘gây nguy hiểm.’ Không có gì phải lo điều đó. Họ cũng không chặn anh lại sau khi X-ray ở phi trường. Tôi hứa sẽ không làm gì anh phải gặp rắc rối. Một cách thực tiễn nó cũng không nặng nề gì. Tất cả tôi yêu cầu là anh mang nó đi như anh mang bất kỳ thứ gì khác. Lý do duy nhất tôi không gửi nó đi bằng bưu điện là vì tôi không cảm thấy thích gửi bưu điện.”
Tháng hai ở Hokkaido phải lạnh lắm, Komura biết nhưng lạnh hay nóng với anh như nhau mà thôi.
“Vậy tôi phải giao gói hàng cho ai?”
“Em gái tôi. Em gái út của tôi. Nó sống ở đó.”
Komura quyết định chấp thuận yêu cầu của Sasaki. Anh không nghĩ mình tiêu thời giờ một tuần lễ nghỉ thế nào và vạch chương trình ngay cho thêm rắc rối. Thêm nữa anh không có lý do cho việc không muốn đi Hokkaido. Sasaki gọi điện thoại cho hãng máy bay và giữ một vé đi Kushiro. Chuyến máy bay sẽ bay vào buổi trưa hai ngày sau đó.
Ngày kế lúc làm việc, Sasaki đưa cho Komura một chiếc hộp kiểu hộp chứa tro cốt nhưng nhỏ hơn, gói giấy cứng. Anh cảm giác chiếc hộp bằng gỗ. Như Sasaki nói, nó nhẹ và quấn chung quanh bằng những băng keo to bản. Cầm chiếc hộp trong tay Komura suy nghĩ một chốc. Anh lắc nhẹ nhưng không nghe và cảm thấy có gì chuyển động bên trong.
“Em gái của tôi sẽ đón anh ở phi trường và nó sẽ sắp xếp một phòng ngủ cho anh,” Sasaki nói. “Việc anh phải làm là đứng bên ngoài cổng với gói giấy trên tay cho nó trông thấy. Đừng lo, phi trường không lớn lắm đâu.”
Komura ra đi với chiếc hộp gói kín trong chiếc áo lót dày nằm trong va li của mình. Không như anh nghĩ chiếc máy bay thật đông hành khách. Anh tự hỏi tại sao nhiều người từ Tokyo đi Kushiro vào giữa mùa đông thế này?
Báo buổi sáng đầy những bài tường thuật về trận động đất. Komura đọc báo từ đầu cho đến cuối chuyến bay. Số người chết tăng dần. Nhiều khu vực vẫn chưa có nước và điện với vô số người không nhà cửa. Mỗi một bài báo tường trình một số bi thảm mới nhưng đối với Komura các chi tiết dường như thiếu chiều sâu. Mọi âm thanh đến với anh như từ xa xăm, vang vọng thật đơn điệu. Chỉ có một điều có thể cho anh suy nghĩ nghiêm trọng là người vợ của anh trong khi cô ta ngày càng xa hơn khoảng cách.
Anh đưa mắt trên những bài tường thuật động đất một cách máy móc, thỉnh thoảng dừng lại và nghĩ về vợ của mình, rồi lại trở về bài báo. Khi cảm thấy mệt anh nhắm mắt rồi ngủ. Và khi thức giấc anh lại tiếp tục nghĩ về vợ. Tại sao cô ta lại theo dõi những bài tường thuật với sự căng thẳng như thế từ sáng đến tối mà không hề ăn uống gì? Cô ta có thể thấy gì trong ấy?
Hai người phụ nữ trẻ mặc áo khoác ngoài cùng kiểu và cùng màu tiến lại gần Komura ở phi trường. Một người hơi cao có thể năm feet sáu với mái tóc ngắn. Khoảng cách từ mũi đến bờ môi trên cô ta mở rộng lạ kỳ làm Komura hình dung con bò lông ngắn. Người thứ hai cỡ năm feet một nếu không vì cái mũi nhỏ thì cô ta có thể nói là đẹp. Tóc cô dài buông thẳng xuống vai. Tai hơi vễnh và có hai nốt ruồi ở trái tai rất dễ thấy nhờ qua đồ đeo tai của cô ta. Cả hai người phụ nữ cỡ khoảng hai mươi tuổi và họ kéo Komura ra quán café trong phi trường.
Cô gái cao nói “tôi là Keiko Sasaki”. “Anh tôi có bảo anh giúp cho anh ấy. Còn đây là bạn tôi Shimao.”
“Hân hạnh được gặp cô,” Komura trả lời.
“Chào anh” Shimao nói.
“Anh tôi có bảo vợ anh mới mất,” Keiko Sasaki nói với vẻ phân ưu.
Komura chờ một chốc trước khi trả lời. “Không, cô ta không mất.”
“Tôi vừa mới nói chuyện với anh tôi hôm kia. Tôi chắc chắn rằng anh ấy nói rất rõ rằng anh mất vợ.”
“Tôi mất vợ. Cô ta ly dị tôi. Nhưng cho đến bây giờ cô ấy vẫn sống và sống khỏe.”
“Thật là kỳ lạ. Tôi không thể có thể nghe lầm điều quan trọng như thế được.” Cô ta nhìn anh như có ý đáng tiếc. Komura cho một ít đường vào tách café rồi khuấy nhẹ trước khi nhắp một ngụm. Chất lỏng loãng, không mùi vị đáng nói, chỉ là bề ngoài hơn là thực chất. Tôi làm quái quỉ gì ở đây nhỉ? Anh tự hỏi.
“Được rồi, tôi nghĩ mình nghe lầm. Tôi không có thể tưởng tượng gì khác để giải thích sự lầm lẫn này.” Keiko Sasaki nói, giờ tỏ ra thỏa mãn. Cô ta hít một hơi dài và cắn môi dưới. “Xin lỗi, tôi thật thô lỗ.”
“Không có chi. Dù gì đi nữa vợ tôi cũng đã ra đi.”
Shimao không nói gì trong khi Komura và Keiko nói chuyện, tuy nhiên cô ta mĩm cười và nhìn chăm chú Komura. Cô ta có vẻ thích anh. Anh có thể hiểu cô ta qua diễn tả và biểu hiện qua cử chỉ tinh tế trên con người cô. Một khoảng im lặng ngắn ngủi bao trùm ba người.
“Dù gì tôi cũng phải giao gói hàng quan trọng tôi mang đến cho cô,” Komura nói. Anh mở vali và lôi cái gói ra khỏi bộ đồ lót trượt tuyết dày mà anh quấn chung quanh. Anh chợt nghĩ: Mình phải mang vật này trên tay khi ra khỏi máy bay. Vậy sao họ có thể nhận ra mình. Làm thế nào họ biết mình nhỉ?
Keiko Sasaki vươn tay qua bên bàn, đôi mắt vô cảm nhìn chăm chú gói hàng. Sau khi ước lượng sức nặng của nó cô ta làm như Komura đã làm và đưa lên tai lắc nhẹ. Cô nhìn anh mĩm cười như thể bảo rằng mọi việc êm xuôi, tốt đẹp và chuồi chiếc hộp vào chiếc túi to đeo vai của cô.
“Tôi phải gọi điện thoại,” cô ta bảo. “Xin lỗi không phiền nếu tôi phải đi vắng mặt một chút?”
“Không có chi, thoải mái đi.” Komura nói.
Keiko mang chiếc túi lên vai và đi về phía phòng điện thoại. Komura nhìn chăm chú cách cô ta đi. Bán thân trên không chuyển động trong khi từ hông trở xuống chuyển động qua lại nhịp nhàng. Anh có một ấn tượng lạ lùng là mình đang là chứng nhân của một giây phút quá khứ vô tình đẩy nó vào hiện tại.
“Anh có bao giờ ở Hokkaido chưa? Shimao hỏi.
Komura lắc đầu.
“Ừ, tôi biết nó quá xa.”
Komura gật đầu rồi thăm dò chung quanh. “Thật ngộ nghĩnh,” Anh nói, “ngồi đây như thế này, không có cảm tưởng xa gì cả.”
“Bởi vì anh bay. Những chiếc phi cơ bay quá nhanh. Đầu óc anh chưa bắt kịp với thân thể.”
“Cô có thể nói đúng.”
“Anh có thích chuyến đi xa thế này không?”
“Tôi nghĩ là thích,” Komura nói.
“Bởi vì vợ anh đã ra đi?”
Anh gật đầu.
“Không cần biết chuyến đi xa như thế nào, anh không bao giờ vượt ra khỏi anh được,” Shimao nói.
Komura nhìn chăm chú chiếc chén đựng đường trên bàn trong khi cô ta nói, rồi anh nhìn thằng vào mắt cô.
“Thật vậy,” anh nói. “Không cần biết chuyến đi xa đến đâu, tôi không bao giờ thoát khỏi tôi. Nó giống như chiếc bóng mình, đi theo tôi mọi nơi.”
Shimao nhìn Komura chăm chú. “Tôi chắc là anh yêu cô ta, có phải không?”
Komura tránh né câu hỏi. “Cô là bạn của Keiko Sasaki?”
“Phải, chúng tôi chia xẽ nhiều thứ với nhau?”
“Chia xẽ thứ gì?”
Thay vì trả lời anh, Shimao hỏi, “Anh có đói không?”
“Tôi tự hỏi mình khi như đói khi như không.”
“Cả ba chúng ta kiếm cái gì nóng ăn. Nó sẽ giúp anh nhẹ nhàng thoải mái.”
Shimao lái chiếc xe Subaru nhỏ hai cầu. Từ tiếng máy khua ồn ào ắt nó phải trãi qua hơn trăm ngàn dặm rồi. Cái thanh cản sau lõm vào sâu. Keiko Sasaki ngồi cạnh Shimao, và Komura chui vào chiếc ghế chật hẹp sau. Cũng không có gì đặc biệt tệ hại khi Shimao lái xe nhưng phía sau tiếng ồn thật khủng khiếp, và bộ nhún như đội người lên. Hộp số tự động va vào then chuyền mỗi khi sang số và cái máy sưởi thổi hơi ra khi nóng khi lạnh. Komura nhắm mắt lại vừa cảm tưởng như mình đang ở trong cái máy giặt quần áo.
Tuyết không có trên đường nhưng đường phố ở Kushiro dơ dáy với những đống băng chen lấn cao thấp hai bên lề đường. Mây xám đùn trên cao và dù trời chưa tối nhưng mọi vật tối đen áo não. Gió gào rít như xé toang thành phố. Không hề có khách bộ hành. Ngay cả những ngọn đèn giao thông như đông cứng lại.
“Đây là một phần Hokkaido không có nhiều tuyết.” Keiko Sasaki quay nhìn Komura lớn giọng giải thích. “Chúng ta ở trên bờ biển và gió mạnh thế nên cái gì chất cao sẽ bị thổi bay đi. Trời lạnh, lạnh cóng thế nên đôi khi có cảm tưởng cái tai bay mất."
“Anh có nghe những người say rượu nắm chết cóng trên đường phố.” Shimao nói.
“Cô có thấy gấu chung quanh đây không?” Komura hỏi.
Keiko phá lên cười và quay qua Shimao. “Anh ta nói những con gấu.”
Shimao cũng phá lên cười như Keiko.
“Tôi không biết nhiều về Hokkaido.” Komura nói như giải thích.
“Tôi biết một câu chuyện hay về gấu.” Keiko nói. “Này, Shimao?”
“Một câu chuyện tuyệt vời!” Shimao nói.
Nhưng cuộc nói chuyện của họ dừng lại chỗ này và không ai trong họ nói về câu chuyện gấu. Komura không hỏi thêm. Bấy giờ họ đã đến nơi, một tiệm mì trên đường liên tỉnh. Họ đậu xe rồi vào quán. Komura gọi bia và một tô mì nóng hổi. Quán vắng vẻ, dơ dáy và bàn ghế xiêu vẹo nhưng mì thật ngon. Khi Komura ăn xong thực sự anh cảm thấy có chút nhẹ nhàng thoải mái.
“Anh Komura, cho tôi biết anh muốn làm gì ở Hokkaido. Anh tôi nói anh sẽ ở đây một tuần.” Keiko Sasaki nói.
Komura suy nghĩ một chốc nhưng không nghĩ ra mình muốn làm gì ở đây.
“Suối nước nóng? Anh có muốn ngâm mình trong bồn tắm? Tôi biết một vùng quê nhỏ không xa nơi đây.”
“Cũng được,” Komura nói.
“Tôi chắc anh sẽ thích. Thật xinh đẹp và không có gấu hay thứ gì khác.”
Hai người phụ nữ nhìn nhau lại cười phá lên.
“Anh không có phiền nếu tôi hỏi về vợ anh chứ?” Keiko hỏi.
“Không gì đâu.”
“Cô ta ra đi khi nào?”
“Ờ…năm ngày sau trận động đất, đến hôm nay hơn hai tuần rồi.”
“Có dính lìu gì đến trận động đất hay không?”
Komura lắc đầu. “Có lẽ không, tôi nghĩ như vậy.”
“Này, tôi tự hỏi điều xãy ra có thể liên hệ với cái gì chứ,” Shimao nói vừa nghiêng đầu.
“Ừ,” Keiko nói. “Vì anh không thấy mà thôi.” “Đúng rồi,” Shimao nói.”Kiểu quỉ quái giống thế này thường xãy ra.”
“Quỉ quái giống cái gì?” Komura hỏi.
“Giống như đã xãy ra với người nào đó tôi biết,” Keiko nói.
“Mày định nói ông Saeki?” Shimao hỏi. “Đúng như thế,” Keiko nói. “Có một người tên Saeki. Ông ta khoảng bốn mươi tuổi, làm tóc sống ở Kushiro. Vào mùa thu năm ngoái vợ ông ta trong khi đang lái xe trên con đường rìa thành phố lúc nữa đêm thấy một chiếc Đĩa Bay khổng lồ đáp xuống cánh đồng. Ôi chao, giống như phim Close Encounters. Một tuần sau, bà ta đi khỏi nhà. Họ không có vấn đề gia đình gì cả. Bà ta chỉ biến mất và không bao giờ trở về.
“Biến vào không khí.” Shimao nói.
“Và chuyện ấy xãy ra do Đĩa Bay? Komura hỏi.
“Tôi không biết tại sao,” Keiko nói. “Bà ta đi, không ghi lại gì cả. Bà ta có hai đứa con còn học tiểu học. Tuần lễ trước khi ra đi điều bà ta làm là đi nói với mọi người về chiếc Đĩa Bay. Anh không thể làm bà ta dừng lại, bà tiếp tục và tiếp tục nói về Đĩa Bay đẹp và lớn như thế nào.”
Cô ta ngừng nói và câu chuyện chìm xuống.
“Vợ tôi có để lại vài chữ,” Komura nói. “Và chúng tôi không có con.”
“Như thế tình trạng của anh có khá hơn Saeki chút đỉnh,” Keiko nói.
“Vâng. Con nít khác đi nhiều,” Shimao gật đầu nói.
“Cha của Shimao bỏ nhà đi lúc nó bảy tuổi,” Keiko nhăn mặt giải thích. “Bỏ nhà đi với em vợ.”
“Mọi sự là một bất ngờ. Một ngày,” Shimao mĩm cười nói.
Một sự im lặng bao trùm mọi người.
“Có thể vợ của Saeki không phải tự ý ra đi mà bị người hành tinh khác từ Đĩa Bay bắt cóc. Komura nói nhẹ nhàng vấn đề.
“Có thể.” Shimao nói với vẻ chán nản. “Anh luôn nghe chuyện kiểu như thế này.”
“Mày định nói giống như mày-đang-đi-dọc-đường-phố-và-một-con-gấu-ăn-mày kiểu như thế? Keiko hỏi. Hai người phụ nữ lại lần nữa phá lên cười. Cả ba rời khỏi tiệm mì và đến một khách sạn hẹn hò* gần đó. Nó nằm ở ngoại ô thành phố trên con đường mà các khách sạn hẹn hò và đại lý bán mộ phần xen kẻ nhau. Khách sạn mà Shimao chọn là một tòa nhà cổ, kiến trúc kiểu lâu đài Âu châu. Một lá cờ tam giác đỏ bay trên đỉnh tháp cao nhất.
Keiko nhận chìa khóa từ quầy tiếp khách và cả ba đi thang máy lên phòng. Những cửa sổ nhỏ xíu so với cái giường khổng lồ một cách phi lý. Komura treo áo khoác lên móc và vào phòng vệ sinh. Trong suốt thời gian này hai người phụ nữ kiểm tra nước phòng tắm, độ sáng đèn, máy sưởi, mở TV, xem xét thực đơn giao thức ăn từ tiệm ăn địa phương, thử công tắc đèn đầu giường và kiểm tra những thứ có trong quầy nhỏ của phòng.
“Những người chủ khách sạn là bạn của tôi,” Keiko nói. “Tôi bảo dành sẳn phòng lớn nhất. Tuy là kiểu khách sạn hẹn hò nhưng không để việc ấy gây phiền nhiễu anh. Anh có thấy phiền không?”
“Không hoàn toàn như thế,” Komura nói.
“Tôi nghĩ điều này có ý nghĩa hơn la nhét anh vào cái phòng chật hẹp của những khách sạn rẻ tiền ở ngoài trạm.”
“Có thể đúng,” Komura bảo.
“Sao anh không đi tắm? Tôi mở nước đầy bồn tắm rồi.”
Komura thực hiện điều mình được nghe. Cái bồn tắm thật rộng. Anh cảm thấy mình không dễ dàng ngâm mình trong đó một mình. Những cặp nam nữ vào khách sạn này có thể tắm chung.
Khi ra khỏi phòng tắm anh ngạc nhiên thấy Keiko Sasaki đã đi. Shimao ở lại đang uống bia và xem TV.
“Keiko về nhà,” Shimao nói. “Cô ta muốn tôi xin lỗi anh và cô ấy sẽ trở lại vào sáng mai. Anh không thấy phiền nếu tôi uống bia và tạm ở đây một chốc?”
“Được,” Komura nói.
“Anh chắc không có vấn đề? Như là anh muốn được ở một mình hay không thể nghỉ xã hơi nếu có ai đó chung quanh hay điều gì khác?”
Komura nói không thành vấn đề. Vừa uống bia vừa làm khô tóc với chiếc khăn tắm, anh vừa xem TV với Shimao. Tin tức về cuộc động đất ở Kobe. Những hình ảnh quen thuộc xuất hiện nhiều lần: tòa nhà cao tầng nghiêng ngã, đường phố sụp đỗ, những bà lão khóc, ngơ ngẩn hay giận dữ vô cớ. Khi quảng cáo thương mãi đến, Shimao dùng remote tắt TV.
“Hãy nói chuyện,” cô ta nói, “khi mà chúng ta ở đây.”
“Được,” Komura nói.
“Ừm, chúng ta nên nói gì đây?”
“Lúc ở trong xe, Keiko và cô nói gì đó về một con gấu, nhớ không? Cô bảo đó là một câu chuyện thật là tuyệt.”
“Ồ, vâng,” cô gật đầu nói. “Câu chuyện gấu.”
“Cô kể tôi nghe chứ?”
“Được, sao lại không?”
Shimao lấy bia mới từ quầy và rót vào ly hai người.
“Câu chuyện hơi tục nếu anh không thấy phiền?” Cô ta nói.
Komura lắc đầu.
“Tôi muốn nói là đàn ông không thích nghe đàn bà kể những loại chuyện như thế.”
“Tôi không phải loại người ấy.” “Thực ra điều ấy xãy ra cho tôi, thế nên tôi có chút ngại ngần.”
“Tôi cũng thích nghe nếu cô bằng lòng kể.”
“Tôi bằng lòng nếu anh đồng ý.”
“Tôi bằng lòng mà.” Komura nói.
“Ba năm trước, khoảng thời gian tôi học cao đẳng. Tôi có cặp với một anh sinh viên cùng trường. Anh ta lớn hơn tôi một tuổi. Đó là người đàn ông tôi làm tình đầu tiên. Một ngày nọ hai chúng tôi đi bộ lên núi phía bắc.”
Cô ta uống một ngụm bia.
“Mùa thu trên đồi có rất nhiều gấu. Đấy là lúc mà gấu chuẩn bị cho giấc đông miên nên chúng tìm thức ăn và chúng thực sự rất nguy hiểm. Đôi khi chúng tấn công người. Trước đó ba ngày chúng đã tấn công một người đi bộ. Thế nên có người cho chúng tôi cái chuông để mang theo. Cái chuông này to bằng cái chuông gió và khi đi chúng tôi rung lên để cho gấu biết là có người ở chung quanh và nó không xuất hiện. Gấu cũng không vô cớ tấn công người. Tôi nói rằng gấu thích rau cỏ. Nó không phải tấn công người vì đói. Điều gì xãy ra khi nó bất ngờ gặp phải người trên vùng đất của nó, nó ngạc nhiên, giận dữ rồi tấn công đột ngột vì phản xạ. Do đó nếu anh vừa đi vừa rung chuông chúng sẽ tránh anh. Anh hiểu chứ?”
“Tôi hiểu rồi.”
“Đó là cách mà chúng tôi làm khi đi bộ: vừa đi vừa rung chuông. Chúng tôi đến nơi mà không có người nào khác ở đấy và bất ngờ gã bạn trai tôi muốn làm … chuyện ấy. Tôi cũng thích cái ý tưởng đó nên đồng ý. Chúng tôi kéo nhau vào bụi rậm thật xa đường lộ để không ai thấy sau đó trãi tấm nilon. Nhưng vì sợ gấu, tôi nghĩ thật ghê rợn nếu có con gấu nào đó tấn công từ phía sau và sẽ giết mình trong khi mình làm tình! Tôi không bao giờ muốn chết kiểu này, phải không anh?”
Komura đồng ý rằng anh không muốn chết kiểu ấy.
“Thế nên chúng tôi rung chuông bằng một tay trong khi làm tình. Từ đầu cho đến cuối. Ding-a-dong! Dinh-a- dong!”
“Người nào rung chuông?”
“Chúng tôi thay phiên nhau. Chúng tôi chuyển trao khi tay mỏi. Thật là kỳ cục khi phải lắc chuông trong khi làm tình! Thỉnh thoảng bây giờ tôi nghĩ đến nó ngay khi làm tình tôi lại tức cười.”
Komura cũng bật cười.
Shimao vỗ tay,”Ồ, thật là tuyệt vời,” cô ta bảo, “cuối cùng anh cũng có thể cười!”
“Dĩ nhiên tôi có thể cười,” Komura nói, nhưng đồng thời nghĩ về điều ấy đúng là lần đầu tiên hầu như mình cười. Thế lần cuối là bao giờ?
“Anh không cảm thấy phiền nếu tôi đi tắm chứ?” Shimao hỏi.
“Tốt,” anh bảo.
Trong khi cô ta tắm, Komura xem nhiều màn TV do vài người hề điều khiển chương trình với giọng ồn ào. Anh không tìm thấy tí gì là vui cả nhưng anh không thể bảo rằng do chương trình hay do mình. Anh uống bia và mở một gói hạt lấy từ quầy ra ăn. Shimao ở khá lâu trong buồng tắm. Cuối cùng, cô ta ra với cái khăn tắm quấn trên người và ngồi trên mép giường. Cỡi chiếc khăn tắm cô ta chui vào trong lớp chăn như con mèo và nhìn Komura.
“Lần cuối cùng anh làm tình với vợ khi nào?” cô ta hỏi.
“Tôi nghĩ là cuối tháng mười hai.”
“Và từ đó đến giờ?”
“Không có.”
“Không với bất kỳ ai?”
Komura nhắm mắt lại và lắc đầu.
“Anh biết tôi nghĩ gì,” Shimao nói. “Anh phải khởi động trở lại và tập hưởng thụ thêm cuộc đời. Tôi muốn anh nghĩ về điều này: Ngày mai có thể động đất; anh có thể bị người ngoài trái đất bắt cóc; anh có thể bị gấu ăn thịt. Không ai biết được điều gì sẽ xãy ra.”
“Không ai biết được điều gì sẽ xãy ra.” Komura lập lại.
“Ding-a- dong,” Shimao nói.
Sau vài lần cố gắng làm tình với Shimao thất bại, Komura chịu thua. Việc này chưa bao giờ xãy ra trước đó.
“Anh đã nghĩ đến vợ anh?” Shimao hỏi. “Đúng,” Komura nói, nhưng thật ra điều anh nghĩ là trận động đất. Những hình ảnh đến trong anh tiếp nối lóe sáng trên một màn hình rồi từ từ biến mất. Xa lộ, lữa cháy, khói, gạch đá và những con đường gãy nứt. Anh không thể nào bẻ gãy được chuỗi hình ảnh thinh lặng đó.
Shimao ép tai cô ta lên ngực trần của anh.
“Những điều này xãy ra,” cô ta nói.
“Ừ.”
“Anh đừng để nó quấy nhiễu mình.”
“Tôi sẽ cố gắng,” Komura nói.
“Tuy vậy, đàn ông luôn để nó quấy nhiễu mình.”
Komura không nói gì.
Shimao đùa với đầu vú của anh.
“Anh nói vợ anh để cho anh vài chữ, phải không?”
“Đúng thế.”
“Chữ gì vậy?”
“Sống với anh như sống với mớ không khí.”
“Một đống không khí?” Shimao ngữa đầu ra sau nhìn Komura. “Điều ấy nghĩa thế nào?”
“Tôi đoán, không có gì trong tôi.”
“Thực không?”
“Có thể,” Komura nói. “Nhưng tôi không chắc. Có thể không có gì bên trong tôi, nhưng có cái gì tồn tại?”
“Vâng, thực ra hãy nghĩ điều đó. Có cái gì đó tồn tại? Mẹ tôi điên vì da cá hồi. Bà thường ước có loại cá hồi không có gì cả ngoại trừ da của nó. Như vậy có thể có một số trường hợp tốt hơn là không có gì bên trong. Anh có nghĩ như thế không?”
Komura cố tưởng tượng có một con cá hồi không có gì bên trong ngoại trừ da của nó giống cái gì. Nhưng ngay cả giả dụ có một thứ như thế, tự nó cái da không thể là cái gì đó bên trong? Komura thở một hơi thật sâu, làm đầu của Shimao nâng lên và hạ xuống ngực anh.
“Tuy nhiên tôi nói với anh điều này,” Shimao nói. “Tôi không biết anh có hay không có gì trong anh, nhưng tôi nghĩ anh thật kinh khủng. Tôi cá cõi đời này đầy những người đàn bà sẽ hiểu anh và yêu anh.”
“Cái thư cũng nói như thế.”
“Cái gì? Vợ anh viết?”
“Đúng vậy.”
“Không đùa chứ,” Shimao nói, dúi đầu xuống ngực Komura lần nữa. Anh cảm thấy đồ đeo tai của cô ép vào da mình như một vật bí ẩn.
“Hãy nghĩ về nó,” Komura nói, “Có gì bên trong chiếc hộp mà tôi mang đến đây?”
“Điều ấy gây phiền nhiễu anh?”
“Trước đây nó không thế. Nhưng bây giờ, tôi không biết, nó bắt đầu rồi.”
“Từ lúc nào?”
“Ngay bây giờ.”
“Tất cả thình lình?”
“Vâng, khi tôi bắt đầu suy nghĩ về nó, tất cả đều thình lình.”
“Tôi tự hỏi tại sao nó bắt đầu quấy nhiễu anh, mọi việc đều là bất chợt.”
Komura nhìn lên trần nhà suy nghĩ một phút. “Tôi tự hỏi.”
Họ nghe gió rền rĩ. Gió: nó đến với Komura từ một nơi xa lạ nào đó. Nó thổi quá khứ từ nơi xa lạ đến với anh.
“Tôi sẽ nói với anh tại sao,” Shimao thấp giọng nói. “Bởi vì cái hộp ấy chứa điều gì đó có trong anh. Anh không biết rằng khi anh mang nó đến đây tận tay đưa cho Keiko. Anh không bao giờ lấy lại được.”
Komura nhấc mình lên khỏi tấm nệm và nhìn xuống người phụ nữ. Mũi bé, những nốt ruồi trên trái tai. Một sự im lặng sâu lắng trong phòng, tim anh đập mạnh nặng nề và khô khan. Xương kêu răng rắc anh khi chồm về phía trước. Trong tích tắc, Komura nhận ra rằng anh đang bên bờ phạm một hành động bạo lực kinh khiếp.
“Chỉ đùa thôi,” Shimao nói khi cô ta thấy vẻ mặt anh. “Tôi nói cái điều đầu tiên hiện trong đầu mình. Đó là trò đùa rẻ tiền. Xin lỗi. Cố đừng để nó quấy nhiễu anh. Tôi không có ý làm anh tổn thương.”
Komura cố ép mình bình tĩnh lại và sau khi ném cái nhìn chung quanh phòng anh dúi đầu vào gối lần nữa. Anh nhắm mắt và thở một hơi thật sâu. Cái giường rộng mênh mông căng ra chung quanh anh như một biển tối. Anh nghe gió đông đặc lại. Trái tim đập dữ tợn làm rung chuyển cả xương cốt.
“Anh có cảm thấy một chút như mình đã qua một đoạn đường dài?” Shimao hỏi.
“Hừ. Bây giờ tôi cảm thấy như mình đã qua một quãng đường rất dài.” Komura thành thực trả lời.
Shimao vạch những hình dạng phức tạp trên ngực Komura bằng đầu ngón tay của cô như làm pháp thuật.
“Nhưng thực ra anh chỉ mới ở khởi điểm.” cô nói.

“after the quake – ufo in kushiro – Haruki Murakami”
Lê Phú Lộc chuyển ngữ

Tất cả tựa đề truyện ngắn thuộc tác phẩm "after the quake" đều không được viết hoa (upper case) theo yêu cầu của tác giả (chú thích người dịch)
_________________________________
*Khách sạn hẹn hò: Loại khách sạn cho các đôi trai gái đến thuê