CUỘC ĐỐI ĐẦU BẮT BUỘC

Mỹ, Trung Quốc và Bi Kịch Chính Trị Cường quốc [1]


John J. Mearsheimer
November/December, 2021
 
 
 

Một sự lựa chọn quan trọng. Ba thập kỷ trước, Chiến tranh Lạnh kết thúc, Hoa Kỳ đã chiến thắng và bấy giờ là cường quốc duy nhất trên hành tinh. Rà soát sự đe dọa từ xa, các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ dường như không có lý do gì để lo lắng - và đặc biệt về Trung Quốc, một quốc gia yếu kém và nghèo khó đã liên kết với Hoa Kỳ chống lại Liên Xô trong hơn một thập kỷ. Nhưng có một số dấu hiệu đáng ngại: Trung Quốc có số dân gần gấp 5 lần Hoa Kỳ và các nhà lãnh đạo của họ đã chấp nhận cải cách kinh tế. Quy mô dân số và sự giàu có là những yếu tố chính tạo nên sức mạnh quân sự, vì vậy có khả năng Trung Quốc sẽ trở nên mạnh hơn đáng kể trong những thập kỷ tới. Vì một Trung Quốc hùng mạnh hơn chắc chắn sẽ thách thức vị thế của Hoa Kỳ ở châu Á và có thể xa hơn nữa, nên lựa chọn hợp lý cho Hoa Kỳ rất rõ ràng: làm chậm sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Thay vào đó, bị khuyến khích, thuyết phục bởi những lý thuyết sai lầm về chiến thắng không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tự do và sự lỗi thời của cường quốc xung đột, cả chính quyền Dân chủ và Cộng hòa đều theo đuổi chính sách can dự (Engagement), nhằm tìm cách giúp Trung Quốc giàu mạnh hơn. Washington thúc đẩy đầu tư vào Trung Quốc và hoan nghênh nước này tham gia vào hệ thống thương mại toàn cầu, và cho rằng nước này sẽ trở thành một nền dân chủ yêu chuộng hòa bình và một bên liên quan có trách nhiệm trong trật tự quốc tế do Mỹ dẫn đầu.

Tất nhiên, điều tưởng tượng này không bao giờ thành hiện thực. Khác xa với việc chấp nhận các giá trị tự do trong nước và nguyên trạng ở nước ngoài, Trung Quốc ngày càng đàn áp và tham vọng hơn trong khi phát triển. Thay vì thúc đẩy sự hòa hợp giữa Bắc Kinh và Washington, sự can dự không cản ngăn được sự đối đầu và đẩy nhanh sự kết thúc của cái gọi là thời điểm đơn cực. Ngày nay, Trung Quốc và Hoa Kỳ đang bị nhốt trong cái mà chỉ có thể gọi là một cuộc chiến tranh lạnh mới - một cuộc cạnh tranh an ninh cao độ ảnh hưởng đến mọi khía cạnh trong mối quan hệ của họ. Sự đối đầu này sẽ thử thách các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ nhiều hơn so với cuộc Chiến tranh Lạnh trước, vì Trung Quốc có khả năng là một đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ hơn Liên Xô thời kỳ ban đầu. Và cuộc chiến tranh lạnh này có nhiều khả năng trở nên nóng hơn.

Không có gì đáng ngạc nhiên. Trung Quốc đang hành động chính xác như những gì chủ nghĩa hiện thực dự đoán. Ai có thể trách các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang tìm cách thống trị châu Á và trở thành quốc gia hùng mạnh nhất hành tinh? Chắc chắn không phải là Hoa Kỳ, quốc gia theo đuổi một chương trình nghị sự tương tự, vươn lên trở thành bá chủ trong khu vực của mình và cuối cùng là quốc gia an ninh và thế lực nhất trên thế giới. Và ngày nay, Hoa Kỳ cũng đang hành động đúng như những gì logic hiện thực dự đoán. Từ lâu đã phản đối sự xuất hiện của các bá chủ khác trong khu vực, nó coi tham vọng của Trung Quốc là mối đe dọa trực tiếp và quyết tâm kiểm tra sự trỗi dậy tiếp tục của đất nước. Kết quả không thể tránh khỏi là cạnh tranh và xung đột. Đó là bi kịch của chính trị cường quốc.

Tuy nhiên, điều có thể tránh được là tốc độ và mức độ trỗi dậy bất thường của Trung Quốc. Nếu các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ trong thời điểm đơn cực suy nghĩ về chính trị cân bằng quyền lực, họ sẽ cố gắng làm chậm sự tăng trưởng của Trung Quốc và tối đa hóa khoảng cách quyền lực giữa Bắc Kinh và Washington. Nhưng một khi Trung Quốc trở nên giàu có, một cuộc chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Trung Quốc đã không thể tránh khỏi. Dấn thân can dự (Engagement) có thể là sai lầm chiến lược tồi tệ nhất mà bất kỳ quốc gia nào mắc phải trong lịch sử gần đây: không có ví dụ nào có thể so sánh được về một cường quốc tích cực thúc đẩy sự trỗi dậy của một đối thủ cạnh tranh ngang hàng. Và bây giờ đã quá muộn để cố làm nhiều về điều đó.

BÀI HỌC HIỆN THỰC 101

Ngay sau khi Trung-Xô chia rẽ vào thập niên 1960, các nhà lãnh đạo Mỹ - một cách khôn ngoan - đã giúp Trung Quốc hội nhập vào trật tự phương Tây và giúp nước này phát triển về kinh tế, với lập luận rằng một Trung Quốc hùng mạnh hơn sẽ có khả năng kiềm chế Liên Xô tốt hơn. Nhưng sau đó Chiến tranh Lạnh kết thúc, đặt ra câu hỏi: Các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ nên đối phó với Trung Quốc như thế nào khi họ không còn cần thiết phải kiềm chế Matxcơva? Đất nước này có GDP bình quân đầu người bằng 75% quy mô của Hoa Kỳ. Nhưng với lợi thế về dân số của Trung Quốc, nếu nền kinh tế của nước này phát triển nhanh chóng trong những thập kỷ tới, nó có thể làm lu mờ Hoa Kỳ về sức mạnh kinh tế tuyệt đối. Nói một cách đơn giản, hậu quả của một Trung Quốc ngày càng giàu có đối với cán cân quyền lực toàn cầu là rất lớn.

Từ triển vọng hiện thực, viễn ảnh Trung Quốc trở thành một nền kinh tế khổng lồ là một cơn ác mộng. Nó không chỉ có nghĩa là sự kết thúc tính đơn cực; một Trung Quốc giàu có chắc chắn cũng sẽ xây dựng một quân đội đáng sợ, vì các nước đông dân và giàu có luôn chuyển sức mạnh kinh tế của họ thành sức mạnh quân sự. Và Trung Quốc gần như chắc chắn sẽ sử dụng quân đội đó để theo đuổi bá quyền ở châu Á và đưa sức mạnh đó sang các khu vực khác trên thế giới. Một khi đã xảy ra, Hoa Kỳ sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc kiềm chế, nếu không cố gắng đẩy lùi sức mạnh của Trung Quốc, thôi thúc một cuộc cạnh tranh an ninh nguy hiểm.

Tại sao các cường quốc cam chịu cạnh tranh? Đối với nước mới nổi, không có thẩm quyền cao hơn để phân xử các tranh chấp giữa các nước hoặc bảo vệ họ khi bị đe dọa. Hơn nữa, không nhà nước nào có thể chắc chắn rằng một đối thủ - đặc biệt là một đối thủ có sức mạnh quân sự dồi dào - sẽ không tấn công mình. Ý định của các đối thủ cạnh tranh rất khó tiên đoán. Các quốc gia nhận ra rằng cách tốt nhất để tồn tại trong một thế giới vô chính phủ là trở thành tác nhân quyền lực nhất, điều này trên thực tế có nghĩa là trở thành bá chủ trong khu vực của riêng mình và đảm bảo không có cường quốc nào khác thống trị khu vực của họ.

Logic hiện thực này đã cho thấy chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ngay từ đầu. Các tổng thống thời kỳ đầu và những người kế tiếp đã làm việc tích cực để đưa Hoa Kỳ trở thành quốc gia hùng mạnh nhất ở Tây Bán cầu. Sau khi đạt được quyền bá chủ trong khu vực vào khoảng đầu thế kỷ XX, đất nước này đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn bốn cường quốc thống trị châu Á hoặc châu Âu: nó đã giúp đánh bại đế quốc Đức trong Thế chiến thứ nhất và cả đế quốc Nhật Bản và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai và kiềm chế Liên Xô trong cuộc Chiến tranh Lạnh. Hoa Kỳ lo sợ những bá chủ tiềm năng này không chỉ vì chúng có thể phát triển đủ mạnh để lan sang Tây Bán cầu mà còn vì điều đó sẽ khiến Washington khó phát huy sức mạnh toàn cầu.

Trung Quốc đang hành động theo logic hiện thực tương tự này, thực chất là bắt chước Hoa Kỳ. Trung quốc muốn trở thành nhà nước hùng mạnh nhất ở sân sau của nó và cuối cùng là trên thế giới. TQ muốn xây dựng một lực lượng hải quân toàn cầu (a blue-water navy) để bảo vệ khả năng tiếp cận dầu mỏ ở Vịnh Ba Tư. TQ muốn trở thành nhà sản xuất công nghệ tiên tiến hàng đầu. Nó muốn tạo ra một trật tự quốc tế có lợi hơn cho lợi ích của nó. Một Trung Quốc hùng mạnh sẽ thật ngu ngốc khi bỏ qua cơ hội theo đuổi những mục tiêu này.

Hầu hết người Mỹ không nhận ra rằng Bắc Kinh và Washington đang theo cùng một kịch bản, bởi vì họ tin rằng Hoa Kỳ có một nền dân chủ cao quý, hành động khác với các nước độc tài và tàn nhẫn như Trung Quốc. Nhưng đó không phải là cách hành động của chính trị quốc tế. Tất cả các cường quốc, dù là nền dân chủ hay không, đều có rất ít lựa chọn ngoài việc tranh giành quyền lực trong trò chơi có tổng bằng không (a zero-sum game). Mệnh lệnh này đã thúc đẩy cả hai siêu cường trong Chiến tranh Lạnh. Nó thúc đẩy Trung Quốc ngày nay và sẽ thúc đẩy các nhà lãnh đạo của họ ngay cả khi đó là một nền dân chủ. Và nó cũng thúc đẩy các nhà lãnh đạo Mỹ, khiến họ quyết tâm kiềm chế Trung Quốc.

Ngay cả khi một người bác bỏ luận điểm theo chủ nghĩa hiện thực này, vốn nhấn mạnh các cơ cấu sức mạnh định hướng sự cạnh tranh giữa các cường quốc, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ vẫn nên nhận ra rằng việc biến Trung Quốc, trong số tất cả các quốc gia, thành một cường quốc là một công thức mang đến rắc rối. Rốt cuộc, nước này từ lâu đã tìm cách giải quyết tranh chấp biên giới với Ấn Độ theo những điều kiện có lợi cho mình và thực hiện các mục tiêu xét lại sâu rộng ở Đông Á. Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc đã bền bĩ tuyên bố mong muốn thu hồi Đài Loan, lấy lại quần đảo Điếu Ngư (Nhật Bản gọi là quần đảo Senkaku) từ Nhật Bản, và kiểm soát hầu hết Biển Đông - tất cả mục tiêu ấy bị các nước láng giềng của Trung Quốc chống lại quyết liệt, chứ không cần Hoa Kỳ lưu ý đến. Trung Quốc luôn có những mục tiêu xét lại; sự sai lầm đã cho phép nó trở nên đủ mạnh để tác động lên chúng.

ĐƯỜNG KHÔNG LỰA CHỌN

Nếu các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ chấp nhận logic của chủ nghĩa hiện thực, có một bộ chính sách đơn giản mà họ có thể theo đuổi để làm chậm tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc và duy trì khoảng cách giàu nghèo giữa nước này và Hoa Kỳ. Vào đầu những năm 1990, nền kinh tế Trung Quốc kém phát triển một cách tồi tệ, và sự tăng trưởng trong tương lai của nó phụ thuộc nhiều vào khả năng tiếp cận thị trường, công nghệ và vốn của Mỹ. Là một Goliath về kinh tế và chính trị vào thời điểm đó, Hoa Kỳ đang ở một vị trí lý tưởng để cản trở sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Bắt đầu từ năm 1980, các tổng thống Hoa Kỳ đã ban cho Trung Quốc quy chế “tối huệ quốc”, một sự chỉ định mang lại cho nước này những điều khoản thương mại tốt nhất có thể với Hoa Kỳ. Chủ nghĩa thiên vị đó lẽ ra phải chấm dứt sau Chiến tranh Lạnh, và thay vào đó, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ nên đàm phán một hiệp định thương mại song phương mới áp đặt các điều khoản khắc nghiệt hơn đối với Trung Quốc. Lẽ ra, họ phải làm như vậy ngay cả khi hiệp định đó cũng không mấy thuận lợi cho Hoa Kỳ; với quy mô nhỏ của nền kinh tế Trung Quốc, nó sẽ phải chịu một tác động lớn hơn nhiều so với nền kinh tế Mỹ. Thay vào đó, các tổng thống Hoa Kỳ đã không thận trọng trao quy chế tối huệ quốc cho Trung Quốc hàng năm. Vào năm 2000, sai sót càng trầm trọng thêm khi biến qui chế đó trở nên vĩnh viễn, làm giảm đáng kể đòn bẩy của Washington đối với Bắc Kinh. Năm sau, Hoa Kỳ lại mắc sai lầm khi cho phép Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Với thị trường toàn cầu ngày càng mở rộng, các doanh nghiệp Trung Quốc mở rộng, sản phẩm của họ trở nên cạnh tranh hơn và Trung Quốc phát triển mạnh mẽ hơn.

Liên Hoan Quân Đội tại Beijing, October 2021

Carlos Garcia Rawlins / Reuters

Ngoài việc hạn chế quyền truy cập của Trung Quốc vào hệ thống thương mại quốc tế, Hoa Kỳ nên kiểm soát chặt chẽ việc xuất khẩu các công nghệ tinh vi của Hoa Kỳ. Các biện pháp kiểm soát xuất khẩu sẽ đặc biệt hiệu quả trong những năm 1990 và những năm đầu của thập kỷ tiếp theo, khi các công ty Trung Quốc chủ yếu sao chép công nghệ phương Tây, không tự đổi mới; Việc từ chối Trung Quốc tiếp cận với các công nghệ tiên tiến trong các lĩnh vực như hàng không vũ trụ và điện tử gần như chắc chắn sẽ làm chậm sự phát triển kinh tế của nước này. Nhưng Washington để công nghệ phát triển với một vài giới hạn, cho phép Trung Quốc thách thức sự thống trị của Hoa Kỳ trong lĩnh vực đổi mới quan trọng. Các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ cũng đã mắc sai lầm khi hạ thấp các rào cản đối với đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Trung Quốc, vốn rất nhỏ vào năm 1990 nhưng đã phát triển như nấm trong ba thập kỷ sau đó.

Nếu Hoa Kỳ thực thi cứng rắn với thương mại và đầu tư, Trung Quốc chắc chắn sẽ quay sang các nước khác để được giúp đỡ. Nhưng có những giới hạn đối với những gì nó có thể làm trong những năm 1990. Hoa Kỳ không chỉ sản xuất phần lớn các công nghệ tinh vi nhất thế giới mà còn có một số đòn bẩy — bao gồm các lệnh trừng phạt và đảm bảo an ninh — mà họ có thể đã sử dụng để thuyết phục các quốc gia khác có quan điểm cứng rắn hơn với Trung Quốc. Là một phần trong nỗ lực hạn chế vai trò của Trung Quốc trong thương mại toàn cầu, Washington có thể đã tranh thủ các đồng minh như Nhật Bản và Đài Loan, nhắc nhở họ rằng một Trung Quốc hùng mạnh sẽ là mối đe dọa hiện hữu đối với họ. Với những cải cách thị trường và tiềm năng quyền lực tiềm ẩn, Trung Quốc vẫn sẽ vươn lên bất chấp những chính sách này. Nhưng nó sẽ trở thành một cường quốc vào một ngày sau đó. Và khi nó xảy ra, nó vẫn sẽ yếu hơn đáng kể so với Hoa Kỳ và do đó không có vị thế để tìm kiếm quyền bá chủ trong khu vực.

Bởi vì quyền lực tương đối, thay vì tuyệt đối, là điều cuối cùng quan trọng trong chính trị quốc tế, logic chủ nghĩa hiện thực cho thấy rằng các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ nên kết hợp nỗ lực để làm chậm tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc với một chiến dịch duy trì — nếu không muốn tăng — vị trí dẫn đầu của quốc gia họ so với Trung Quốc. Chính phủ Hoa Kỳ có thể đã đầu tư mạnh vào nghiên cứu và phát triển, tài trợ không ngừng cho loại hình đổi mới cần thiết để duy trì quyền làm chủ của người Mỹ đối với các công nghệ tiên tiến. Nó có thể tích cực làm nản lòng các nhà sản xuất di chuyển ra nước ngoài, để củng cố cơ sở sản xuất của Hoa Kỳ và bảo vệ nền kinh tế của mình khỏi các chuỗi cung ứng toàn cầu dễ bị tổn thương. Nhưng không có biện pháp thận trọng nào được thông qua.

SUY NGHĨ ẢO TƯỞNG

Với chủ nghĩa tự do chiến thắng (the liberal triumphalism) đã lan tràn khắp cơ sở Washington vào những năm 1990, có rất ít cơ hội rằng tư duy hiện thực sẽ cung cấp thông tin cho chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Thay vào đó, các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ cho rằng hòa bình và thịnh vượng toàn cầu sẽ được tối đa hóa bằng cách truyền bá dân chủ, thúc đẩy nền kinh tế quốc tế mở cửa và tăng cường các thể chế quốc tế. Áp dụng cho Trung Quốc, logic này quy định một chính sách can dự, theo đó Hoa Kỳ sẽ hội nhập đất nước vào nền kinh tế toàn cầu với hy vọng rằng nó sẽ trở nên thịnh vượng hơn. Cuối cùng, người ta cho rằng, Trung Quốc thậm chí sẽ phát triển thành một nền dân chủ tôn trọng dân quyền và một tác nhân toàn cầu có trách nhiệm. Không giống như chủ nghĩa hiện thực, vốn lo sợ sự tăng trưởng của Trung Quốc, chủ trương tham gia can dự hoan nghênh nó.

Đối với một chính sách rủi ro như vậy, bề rộng và chiều sâu của sự hỗ trợ đối với sự tham gia rất đáng chú ý, trải dài bốn chính quyền. Tổng thống Hoa Kỳ George H. W. Bush đã cam kết tương tác với Trung Quốc ngay cả trước khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Tại một cuộc họp báo sau vụ thảm sát ở Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, Bush biện minh cho việc tiếp tục gắn bó kinh tế với Trung Quốc bằng cách lập luận rằng “các mối liên hệ thương mại [đã] giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, về bản chất, đã dẫn đến việc đòi hỏi tự do hơn” và rằng các động lực kinh tế làm cho việc dân chủ hóa “không thể lay chuyển được . ” Hai năm sau, khi bị chỉ trích vì đã đổi mới quy chế tối huệ quốc của Trung Quốc, ông đã bảo vệ sự can dự bằng cách tuyên bố rằng nó sẽ “giúp tạo ra một môi trường cho sự thay đổi dân chủ”. Bill Clinton đã chỉ trích Bush vì đã "chiều chuộng" Trung Quốc trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1992 và cố gắng tỏ ra cứng rắn với Bắc Kinh sau khi chuyển đến Nhà Trắng. Nhưng ông đã sớm đảo ngược hướng đi, tuyên bố vào năm 1994 rằng Hoa Kỳ nên “tăng cường và mở rộng sự can dự của mình” với Trung Quốc, điều này sẽ giúp nước này “phát triển như một cường quốc có trách nhiệm, ngày càng phát triển không chỉ về kinh tế mà còn phát triển về mặt chính trị để có nhân quyền có thể quan sát được." Clinton đã dẫn đầu trong việc thuyết phục Quốc hội cấp cho Trung Quốc quy chế tối huệ quốc vĩnh viễn, đặt cơ sở cho việc gia nhập WTO. “Nếu bạn tin tưởng vào một tương lai cởi mở hơn và tự do hơn cho người dân Trung Quốc,” ông khẳng định vào năm 2000, “bạn phải vì thỏa thuận này”.

George W. Bush cũng ủng hộ những nỗ lực nhằm đưa Trung Quốc vào kinh tế toàn cầu, hứa hẹn với tư cách là một ứng cử viên tổng thống rằng “thương mại với Trung Quốc sẽ thúc đẩy tự do”. Trong năm đầu tiên nắm quyền, ông đã ký tuyên bố trao quy chế tối huệ quốc vĩnh viễn cho Trung Quốc và thực hiện các bước cuối cùng để hướng dẫn nước này gia nhập WTO.

Chính quyền Obama cũng giống như vậy. “Kể từ khi tôi là tổng thống, mục tiêu của tôi là liên tục can dự với Trung Quốc theo cách mang tính xây dựng, quản lý sự khác biệt của chúng ta và tối đa hóa cơ hội hợp tác,” Barack Obama nói vào năm 2015. “Và tôi đã nhiều lần nói như vậy. Tôi tin rằng việc chứng kiến Trung Quốc phát triển là vì lợi ích của Hoa Kỳ ”. Người ta có thể nghĩ rằng "xoay trục sang châu Á", do Ngoại trưởng Hillary Clinton công bố vào năm 2011, thể hiện sự chuyển hướng từ can dự sang hướng tới kiềm chế, nhưng điều đó sẽ sai. Clinton là một người tham gia thỏa thuận, và bài báo về Chính sách đối ngoại của bà đưa ra trường hợp xoay trục đã chứa đầy những lời hùng biện tự do về các ưu điểm của thị trường mở cửa. Bà viết: “Một Trung Quốc thịnh vượng là điều tốt cho nước Mỹ." Hơn nữa, tiết kiệm cho việc đặt 2.500 thủy quân lục chiến Mỹ ở Úc, không có bước nào có ý nghĩa được thực hiện để thực thi một chiến lược ngăn chặn nghiêm túc.

Sự ủng hộ cho sự tham gia cũng sâu rộng trong cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ, những người coi Trung Quốc là cơ sở sản xuất cũng như một thị trường khổng lồ, với tiềm năng hơn một tỷ khách hàng. Các nhóm thương mại như Phòng Thương mại Hoa Kỳ, Hội nghị Bàn tròn Kinh doanh và Hiệp hội Các nhà sản xuất Quốc gia đã thực hiện điều mà Thomas Donohue, chủ tịch Phòng Thương mại vào thời điểm đó, gọi là “cuộc vận động hành lang ồ ạt không ngừng nghỉ” để giúp Trung Quốc gia nhập WTO. Những người dẫn đầu trong lĩnh vực truyền thông cũng đón nhận sự tham gia, bao gồm các ban biên tập của The Wall Street Journal, The New York Times và The Washington Post. Người viết chuyên mục Thomas Friedman đã nói cho nhiều người khi ông viết: “Theo thời gian, các nhà lãnh đạo Trung Quốc chỉ đơn giản là không thể kiểm soát và giám sát thị trường tự do đang bùng nổ, hoặc ngăn chặn số ít người khỏi bị lừa bịp và sau đó nổi loạn chống lại chính phủ, mà không có các cơ quan nào khác phải ra tay với thị trường tự do — từ một hiệu quả [hoa hồng chứng khoán và hối đoái] đến báo chí tự do và có trách nhiệm được hỗ trợ bởi quy tắc pháp luật.” Sự tham gia can dự cũng được ưa thích trong giới hàn lâm. Rất ít chuyên gia hoặc học giả quan hệ quốc tế về Trung Quốc đặt câu hỏi về sự khôn ngoan trong việc giúp Bắc Kinh phát triển mạnh mẽ hơn. Và có lẽ dấu hiệu tốt nhất cho thấy cam kết tham gia áp đảo của cơ sở chính sách đối ngoại là cả Zbigniew Brzezinski và Henry Kissinger - những người nổi bật nhất trong Chiến tranh Lạnh của Đảng Dân chủ và Cộng hòa - đều ủng hộ chiến lược này.

Những người bảo vệ tham gia can dự cho rằng chính sách của họ cho phép khả năng thất bại. Clinton thừa nhận vào năm 2000, "Chúng tôi không biết nó sẽ đi đến đâu," và cùng năm George W. Bush nói , "Không có gì đảm bảo." Tuy nhiên, những nghi ngờ như thế này rất hiếm. Điều quan trọng hơn, không ai trong số những người tham gia thấy trước được hệ quả của thất bại. Họ tin rằng, nếu Trung Quốc từ chối dân chủ hóa, nó sẽ đơn giản là một quốc gia kém năng lực. Viễn cảnh rằng nó sẽ trở nên quyền lực hơn và không kém phần độc tài đã không xuất hiện trong tính toán của họ. Bên cạnh đó, họ tin rằng realpolitik[2] là tư duy cũ.

Một số người chủ trương tham gia can dự hiện cho rằng Hoa Kỳ bảo hiểm rủi ro đặt cược của mình, theo đuổi việc ngăn chặn song song với sự can dự trong trường hợp tình hữu nghị với Trung Quốc không phát triển. "Chỉ để được an toàn, . . . Chúng tôi đã tạo ra một chính sách bảo hiểm trong trường hợp vụ cá cược này thất bại, ”Joseph Nye, người từng phục vụ trong Lầu Năm Góc dưới thời chính quyền Clinton, viết trong những trang này vào năm 2018. Tuyên bố này mâu thuẫn với sự kiềm chế thường xuyên của các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ rằng họ không ngăn chặn Trung Quốc. Ví dụ, vào năm 1997, Clinton mô tả chính sách của mình là “không phải ngăn chặn và xung đột” mà là “hợp tác”. Nhưng ngay cả khi các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ lặng lẽ kiềm chế Trung Quốc, sự can dự sẽ làm suy yếu nỗ lực của họ, bởi vì chính sách đó cuối cùng đã thay đổi cán cân quyền lực toàn cầu theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Tạo ra một đối thủ cạnh tranh ngang hàng hầu như không phù hợp với việc ngăn chặn.

MỘT THỬ NGHIỆM THẤT BẠI

Không ai có thể nói rằng can dự (engagement) không mang lại nhiều cơ hội để phát huy tác dụng, cũng như không ai có thể lập luận rằng Trung Quốc nổi lên như một mối đe dọa bởi vì Hoa Kỳ không đủ sức thích nghi. Nhiều năm trôi qua, rõ ràng việc can dự là một thất bại. Nền kinh tế Trung Quốc đã trải qua sự tăng trưởng kinh tế chưa từng có, nhưng đất nước này đã không trở thành một quốc gia dân chủ tự do hay một bên liên quan có trách nhiệm. Ngược lại, các nhà lãnh đạo Trung Quốc coi các giá trị tự do là mối đe dọa đối với sự ổn định của đất nước họ và như các nhà cầm quyền của các cường quốc đang lên thường làm, họ theo đuổi một chính sách đối ngoại ngày càng hung hăng. Không có cách nào để giải quyết vấn đề đó: sự tham gia là một sai lầm chiến lược to lớn. Như Kurt Campbell và Ely Ratner - hai cựu quan chức của chính quyền Obama, những người nhận ra rằng can dự đã thất bại và hiện đang phục vụ trong chính quyền Biden - đã viết trong những trang này vào năm 2018, “Washington hiện phải đối mặt với đối thủ năng động và đáng gờm nhất trong lịch sử hiện đại.”

Obama đã tuyên bố sẽ có đường lối cứng rắn hơn chống lại Bắc Kinh trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, phản đối các yêu sách hàng hải của nước này và đệ đơn kiện lên WTO, nhưng những nỗ lực nửa vời này chỉ đạt được rất ít. Chỉ đến năm 2017, chính sách mới thực sự thay đổi. Sau khi Donald Trump trở thành tổng thống Hoa Kỳ, ông đã nhanh chóng từ bỏ chiến lược can dự mà bốn chính quyền trước đó đã áp dụng, thay vào đó theo đuổi sự ngăn chặn. Như một tài liệu chiến lược của Nhà Trắng công bố năm đó giải thích, sự cạnh tranh giữa các cường quốc đã quay trở lại và Trung Quốc hiện đang tìm cách “thách thức quyền lực, ảnh hưởng và lợi ích của Mỹ, cố gắng làm xói mòn an ninh và sự thịnh vượng của Mỹ”. Quyết tâm ngăn chặn Trung Quốc thành công, Trump đã khởi xướng một cuộc chiến thương mại vào năm 2018 và cố gắng làm suy yếu gã khổng lồ công nghệ Huawei và các tập đoàn khác của Trung Quốc đang đe dọa sự thống trị công nghệ của Hoa Kỳ. Chính quyền của ông cũng phát triển quan hệ chặt chẽ hơn với Đài Loan và thách thức các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh ở Biển Đông. Chiến tranh Lạnh thứ hai đang diễn ra.

Người ta có thể mong đợi Tổng thống Joe Biden từ bỏ ngăn chặn và quay trở lại can dự, vì ông ủng hộ trung thành chính sách đó với tư cách là chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện và trong chính quyền Obama. Trên thực tế, với tư cách là tổng thống, Joe Biden đã thực thi chính sách kiềm chế và tỏ ra cứng rắn với Trung Quốc như người tiền nhiệm, quyết tâm “cạnh tranh gay gắt” với Trung Quốc ngay sau khi nhậm chức. Quốc hội cũng đồng tình. Vào tháng 6, Đạo luật Cạnh tranh và Đổi mới của Hoa Kỳ đã thông qua Thượng viện với sự ủng hộ của lưỡng đảng. Dự luật cho rằng Trung Quốc là “thách thức địa chính trị và địa kinh tế lớn nhất đối với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ” và gây tranh cãi kêu gọi đối xử với Đài Loan như một quốc gia có chủ quyền có tầm quan trọng chiến lược “sống còn”. Công chúng Mỹ dường như có chung quan điểm này: một cuộc thăm dò của Trung tâm Nghiên cứu Pew năm 2020 cho thấy chín trong mười người Mỹ coi sức mạnh của Trung Quốc là một mối đe dọa. Sự cạnh tranh mới giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ không sớm kết thúc. Trên thực tế, nó có khả năng gia tăng bất kể ai ở trong Nhà Trắng.

NGUY HIỂM CỦA CUỘC CHIẾN TRANH NÓNG

Những người bảo vệ còn lại của chính sách Can Dự (Engagement) hiện đã miêu tả vòng xoáy đi xuống trong quan hệ Mỹ-Trung là công việc của những cá nhân cố gắng tạo ra một cuộc đối đầu kiểu Mỹ-Xô - “Những Chiến binh Lạnh mới” (New Cold Warriors), theo lời của cựu quan chức chính quyền George W. Bush, Robert Zoellick. Theo quan điểm của những người tham gia, các động cơ thúc đẩy hợp tác kinh tế hơn nữa lớn hơn nhu cầu cạnh tranh quyền lực. Các lợi ích chung lấn át các lợi ích xung đột. Đáng tiếc, những người ủng hộ việc can dự đang bị thổi bay trong gió. Chiến tranh Lạnh thứ hai đã đến rồi, và khi so sánh hai cuộc chiến tranh lạnh, rõ ràng sự cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc có nhiều khả năng dẫn đến một cuộc chiến nổ súng hơn so với sự đối đầu giữa Hoa Kỳ và Liên Xô.

Điểm trái ngược đầu tiên giữa hai xung đột liên quan đến khả năng. Về sức mạnh tiềm ẩn, Trung Quốc đã gần với Hoa Kỳ hơn so với Liên Xô trước đây. Vào thời kỳ đỉnh cao của quyền lực, vào giữa những năm 1970, Liên Xô có một lợi thế nhỏ về dân số (ít hơn 1,2 đối 1) và, sử dụng GNP như một chỉ số sơ bộ về sự giàu có, gần như 60% người giàu bằng Hoa Kỳ. Ngược lại, Trung Quốc hiện có số dân gấp 4 lần Hoa Kỳ và khoảng 70% dân số giàu có. Nếu nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng với tốc độ ấn tượng khoảng 5% hàng năm, thì nước này cuối cùng sẽ có nhiều sức mạnh tiềm ẩn hơn Hoa Kỳ. Người ta dự đoán rằng đến năm 2050, Trung Quốc sẽ có lợi thế dân số khoảng 3,7 đối 1. Nếu Trung Quốc có GDP bình quân đầu người bằng một nửa Hoa Kỳ vào năm 2050 - tương đương với Hàn Quốc ngày nay - thì nước này sẽ giàu gấp 1,8 lần Hoa Kỳ. Và nếu nó hoạt động tốt hơn và đạt tới ba phần năm GDP bình quân đầu người của Hoa Kỳ vào thời điểm đó - tương đương với vị trí của Nhật Bản ngày nay - thì nước này sẽ giàu gấp 2,3 lần Hoa Kỳ. Với tất cả sức mạnh tiềm ẩn đó, Bắc Kinh có thể xây dựng một quân đội hùng mạnh hơn nhiều so với Hoa Kỳ, lực lượng sẽ giao tranh với Trung Quốc từ xa 6.000 dặm.

Không chỉ Liên Xô nghèo hơn Hoa Kỳ; trong thời kỳ đỉnh cao của Chiến tranh Lạnh, nó vẫn đang phục hồi sau sự tàn phá khủng khiếp của Đức Quốc xã. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đất nước đã mất đi 24 triệu công dân, chưa kể hơn 70.000 thị trấn và làng mạc, 32.000 xí nghiệp công nghiệp và 40.000 dặm đường xe lửa. Nó không có lợi để chống lại Hoa Kỳ. Ngược lại, Trung Quốc tham chiến lần cuối vào năm 1979 (chống lại Việt Nam) và trong những thập kỷ sau đó đã trở thành một đầu tàu kinh tế.

Có một lực cản khác đối với khả năng của Liên Xô mà hầu như không có trong trường hợp của Trung Quốc: đồng minh rắc rối. Trong suốt Chiến tranh Lạnh, Liên Xô duy trì sự hiện diện quân sự khổng lồ ở Đông Âu và tham gia sâu vào chính trị của hầu hết mọi quốc gia trong khu vực đó. Nó phải đối đầu với các cuộc nổi dậy ở Đông Đức, Ba Lan, Hungary và Tiệp Khắc. Albania, Romania và Nam Tư thường xuyên thách thức các chính sách an ninh và kinh tế của Moscow. Liên Xô cũng đã nhúng tay vào Trung Quốc, nước đã chuyển phe giữa chừng trong Chiến tranh Lạnh. Những đồng minh này là một con chim hải âu quanh cổ Moscow khiến các nhà lãnh đạo Liên Xô lạc hướng khỏi đối thủ chính của họ: Hoa Kỳ. Trung Quốc đương đại có ít đồng minh và, ngoại trừ trường hợp Triều Tiên, ít ràng buộc với bạn bè hơn so với Liên Xô. Nói tóm lại, Bắc Kinh có khả năng linh hoạt hơn để gây phiền phức ở nước ngoài.

Còn những động cơ ý thức hệ thì sao? Giống như Liên Xô trước đây, Trung Quốc được lãnh đạo bởi một chính phủ cộng sản trên danh nghĩa. Nhưng cũng như người Mỹ trong Chiến tranh Lạnh đã sai khi coi Moscow chủ yếu là một mối đe dọa cộng sản, quyết tâm truyền bá tư tưởng độc ác của mình trên toàn cầu, sẽ là sai lầm khi miêu tả Trung Quốc như một mối đe dọa ý thức hệ ngày nay. Chính sách đối ngoại của Liên Xô chỉ bị ảnh hưởng bên lề bởi tư duy cộng sản; Joseph Stalin là một người theo chủ nghĩa hiện thực cứng rắn, cũng như những người kế nhiệm ông. Chủ nghĩa cộng sản thậm chí còn ít quan trọng hơn ở Trung Quốc đương đại, được hiểu rõ nhất là một nhà nước độc tài theo chủ nghĩa tư bản. Người Mỹ nên ước rằng Trung Quốc là cộng sản; thì nó sẽ có một nền kinh tế lờ đờ bạc nhược.

Nhưng có một “chủ nghĩa” mà Trung Quốc xem như con át chủ bài, một chủ nghĩa có khả năng làm trầm trọng thêm sự đối đầu của họ với Hoa Kỳ: chủ nghĩa dân tộc. Thông thường, hệ tư tưởng chính trị mạnh mẽ nhất thế giới, chủ nghĩa dân tộc có ảnh hưởng hạn chế ở Liên Xô vì nó mâu thuẫn với chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc đã nổi lên từ đầu những năm 1990. Điều khiến nó trở nên đặc biệt nguy hiểm là việc nó nhấn mạnh vào “thế kỷ nhục nhã quốc gia” của Trung Quốc, một giai đoạn bắt đầu từ Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất, trong đó Trung Quốc là nạn nhân của các cường quốc, đặc biệt là Nhật Bản, nhưng trong câu chuyện của Trung Quốc, Hoa Kỳ. Ảnh hưởng của câu chuyện về chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ này đã được thể hiện vào năm 2012–13, khi Trung Quốc và Nhật Bản đụng độ nhau trên quần đảo Điếu Ngư/Senkaku, gây ra các cuộc biểu tình chống Nhật Bản trên khắp Trung Quốc. Trong những năm tiếp theo, sự cạnh tranh an ninh ngày càng gay gắt ở Đông Á chắc chắn sẽ làm gia tăng thái độ thù địch của Trung Quốc đối với Nhật Bản và Hoa Kỳ, làm tăng khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh nóng.

In Shanghai, April 2021


Ngoài ra, việc gây chiến nâng cao là do tham vọng khu vực của Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo Liên Xô, bận rộn phục hồi sau Thế chiến thứ hai và quản lý đế chế của họ ở Đông Âu, phần lớn hài lòng với nguyên trạng trên lục địa này. Ngược lại, Trung Quốc ràng buộc sâu sắc với một nghị trình bành trướng Đông Á. Mặc dù các mục tiêu chính mà Trung Quốc thèm muốn chắc chắn có giá trị chiến lược đối với Trung Quốc, nhưng chúng cũng được coi là lãnh thổ thiêng liêng, có nghĩa là số phận của nó bị ràng buộc bởi chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc. Điều này đặc biệt đúng với Đài Loan: chẳng hạn, người Trung Quốc cảm thấy gắn bó tình cảm với hòn đảo mà người Liên Xô chưa bao giờ cảm nhận được đối với Berlin, khiến cam kết của Washington bảo vệ hòn đảo này càng trở nên rủi ro hơn.

Cuối cùng, địa lý của chiến tranh lạnh mới dễ gây ra chiến tranh hơn so với chiến tranh lạnh cũ. Mặc dù sự cạnh tranh giữa Mỹ và Liên Xô trên phạm vi toàn cầu, nhưng trọng tâm của nó là Bức màn Sắt ở châu Âu, nơi cả hai bên đều có quân đội và lực lượng không quân khổng lồ được trang bị hàng nghìn vũ khí hạt nhân. Rất ít khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh giữa các siêu cường ở châu Âu, bởi vì các nhà hoạch định chính sách của cả hai bên đều hiểu rõ những nguy cơ đáng sợ của leo thang hạt nhân. Không một nhà lãnh đạo nào sẵn sàng khơi mào một cuộc xung đột có khả năng sẽ phá hủy đất nước của chính mình.

Ở Châu Á, không có đường phân chia rõ ràng như Bức màn sắt ở Châu Âu để neo giữ sự ổn định. Thay vào đó, một số cuộc xung đột tiềm ẩn được hạn chế và liên quan đến vũ khí thông thường, điều này làm cho việc gây chiến có thể nghĩ đến được. Chúng bao gồm các cuộc chiến giành quyền kiểm soát Đài Loan, Biển Đông, quần đảo Điếu Ngư/Senkaku và các tuyến hàng hải chạy giữa Trung Quốc và Vịnh Ba Tư. Các cuộc xung đột này chủ yếu diễn ra ở vùng biển rộng giữa các lực lượng không quân và hải quân đối thủ, và trong những trường hợp mà quyền kiểm soát một hòn đảo đang diễn ra, các lực lượng mặt đất quy mô nhỏ có thể sẽ tham gia. Ngay cả một cuộc chiến nhằm vào Đài Loan, có thể thu hút các lực lượng đổ bộ của Trung Quốc, cũng sẽ không liên quan đến các đội quân trang bị hạt nhân khổng lồ lao vào nhau.

Điều này không có nghĩa là có thể xảy ra kịch bản chiến tranh giới hạn này, nhưng chúng hợp lý hơn một cuộc chiến tranh lớn giữa NATO và Hiệp ước Warsaw. Tuy nhiên, người ta không thể cho rằng sẽ không có leo thang hạt nhân nếu Bắc Kinh và Washington tranh giành Đài Loan hoặc Biển Đông. Thật vậy, nếu một bên thua nặng, thì ít nhất bên đó cũng sẽ cân nhắc sử dụng vũ khí hạt nhân để giải cứu tình hình. Một số người ra quyết định có thể kết luận rằng vũ khí hạt nhân có thể được sử dụng mà không có nguy cơ leo thang là không thể chấp nhận được, miễn là các cuộc tấn công diễn ra trên biển và không để rơi vào lãnh thổ của Trung Quốc, Hoa Kỳ và các đồng minh của họ. Không chỉ một cuộc chiến tranh giữa các cường quốc dễ xảy ra hơn trong cuộc chiến tranh lạnh mới, mà việc sử dụng hạt nhân cũng vậy.

ĐỐI THỦ DO HOA KỲ TẠO NÊN

Mặc dù số lượng đã giảm đi, nhưng những người ủng hộ sự can dự vẫn còn, và họ vẫn nghĩ rằng Hoa Kỳ có thể tìm thấy điểm chung với Trung Quốc. Vào cuối tháng 7 năm 2019, 100 người theo dõi Trung Quốc đã ký một bức thư ngỏ gửi Trump và các thành viên Quốc hội bác bỏ ý kiến cho rằng Bắc Kinh là một mối đe dọa. “Nhiều quan chức Trung Quốc và giới ưu tú khác biết rằng cách tiếp cận ôn hòa, thực dụng và thực sự hợp tác với phương Tây phục vụ lợi ích của Trung Quốc”, họ viết trước khi kêu gọi Washington “làm việc với các đồng minh và đối tác của chúng ta để tạo ra một thế giới cởi mở và thịnh vượng hơn trong đó cho Trung Quốc nhiều cơ hội để tham gia ”.

Nhưng các cường quốc chỉ đơn giản là không muốn để các cường quốc khác phát triển mạnh hơn với phí tổn của họ bỏ ra. Động lực thúc đẩy đối đầu giữa các cường quốc này là do cơ cấu, có nghĩa là vấn đề không thể được loại bỏ bằng hoạch định chính sách khôn ngoan. Điều duy nhất có thể thay đổi động lực cơ bản là một cuộc khủng hoảng lớn đã ngăn cản sự trỗi dậy của Trung Quốc — một sự kiện dường như khó có thể xảy ra nếu xét đến kỷ lục lâu dài về sự ổn định, năng lực và tăng trưởng kinh tế của quốc gia này. Và do đó, một cuộc cạnh tranh an ninh nguy hiểm là tất cả nhưng không thể tránh khỏi.

Tốt nhất, sự đối đầu này có thể được quản lý với hy vọng tránh được một cuộc chiến tranh. Điều đó đòi hỏi Washington phải duy trì các lực lượng quy ước đáng gờm ở Đông Á để thuyết phục Bắc Kinh rằng một cuộc đụng độ vũ khí tốt nhất sẽ mang lại chiến thắng kiểu Pyrrhic. Thuyết phục đối thủ rằng họ không thể đạt được chiến thắng nhanh chóng và quyết định sẽ ngăn cản các cuộc chiến tranh. Hơn nữa, các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ phải liên tục nhắc nhở bản thân - và các nhà lãnh đạo Trung Quốc - về khả năng leo thang hạt nhân trong thời chiến. Vũ khí hạt nhân, xét cho cùng, là biện pháp ngăn chặn cuối cùng. Washington cũng có thể nỗ lực để thiết lập các quy tắc rõ ràng về con đường tiến hành cuộc cạnh tranh an ninh này — ví dụ, các thỏa thuận để tránh các sự cố trên biển hoặc các cuộc đụng độ quân sự ngẫu nhiên khác. Nếu mỗi bên hiểu được ý nghĩa của việc vượt qua ranh giới đỏ của bên kia, thì chiến tranh sẽ khó xảy ra hơn.

Những biện pháp này chỉ có thể làm được nhiều để tối thiểu hóa những nguy cơ vốn có trong sự đối đầu ngày càng tăng giữa Mỹ và Trung Quốc. Nhưng đó là cái giá mà Hoa Kỳ phải trả cho việc phớt lờ logic hiện thực và biến Trung Quốc thành một cường quốc đã xác quyết sự thách thức trên mọi mặt trận.

• JOHN J. MEARSHEIMER is R. Wendell Harrison Distinguished Service Professor of Political Science at the University of Chicago and the author of The Great Delusion: Liberal Dreams and International Realities.

 
 

Hồ Lạc Hồng dịch

___________________________________________
[1] The Inevitable Rivalry_American, China and the Tragedy of Great-Power Politics John J. Mearsheimer Foreign Affairs November/December 2021
[2] A system of politics or principles based on practical rather than moral or ideological considerations.