KẾT THÚC KỶ NGUYÊN WILSONIAN

Tại Sao Chủ Nghĩa Tự Do Quốc Tế Thất Bại[1]


Walter Russell Mead
January, February, 2021
 
 
 

U.S. President Woodrow Wilson

Harris & Ewing / Library of Congress

Một trăm năm sau khi Thượng viện Hoa Kỳ làm bẽ mặt Tổng thống Woodrow Wilson bằng cách từ chối Hiệp ước Versailles, Đại học Princeton, nơi Wilson lãnh đạo làm hiệu trưởng trước khi bắt đầu sự nghiệp chính trị của mình, đã xóa bỏ tên tuổi của ông khỏi ngôi trường nổi tiếng về bang giao quốc tế này. Khi "hủy bỏ" đi, điều này ít nhất được cho là xứng đáng. Wilson là một kẻ phân biệt chủng tộc nghiêm trọng ngay cả theo tiêu chuẩn trong thời đại của ông, và kẻ đứng đằng sau cuộc đàn áp các đối thủ chính trị của chính mình và lạm dụng Red Scare đầu tiên đã được tôn vinh quá lâu và quá phi lý.

Nhưng vấn nạn trong quan điểm cá nhân và chính sách đối nội của Wilson, với tư cách là một chính khách và nhà ý thức hệ, ông phải được coi là một trong những nhà kiến tạo có ảnh hưởng nhất của thế giới hiện đại. Ông không phải là một tư tưởng gia đặc biệt chính gốc. Hơn một thế kỷ trước khi Wilson đề xuất Hội Quốc Liên, Sa hoàng Alexander I của Nga đã cảnh báo những nhà cai trị như mình tại Quốc hội Vienna bằng cách nêu rõ một tầm nhìn tương tự: một hệ thống quốc tế sẽ dựa trên sự đồng thuận đạo đức được duy trì bởi sự phối hợp giữa các quyền lực, sẽ hoạt động từ một tập hợp các ý tưởng được chia sẻ về chủ quyền hợp pháp.[2] Hơn nữa, vào thời Wilson, niềm tin rằng các thể chế dân chủ góp phần vào hòa bình quốc tế trong khi các chế độ quân chủ tuyệt đối vốn dĩ hiếu chiến và không ổn định gần như là nhận xét phổ biến ở những người Mỹ và Anh có học thức. Đóng góp của Wilson là tổng hợp những ý tưởng đó thành một chương trình cụ thể cho một trật tự, dựa trên quy tắc của một tập hợp các định chế quốc tế.

Với nhãn quan đó, việc không giành được sự ủng hộ trên diện rộng tại quê nhà đã khiến Wilson suy sụp, và đã chết như người thất vọng cay đắng. Tuy nhiên, trong những thập kỷ sau đó, những ý tưởng của ông đã trở thành nguồn cảm hứng và hướng dẫn cho các nhà lãnh đạo quốc gia, nhà ngoại giao, nhà hoạt động và trí thức trên khắp thế giới. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều người Mỹ đã hối tiếc về chủ nghĩa cô lập trước chiến tranh của đất nước họ, bao gồm cả việc họ từ chối gia nhập hội Quốc Liên, và Wilson bắt đầu xuất hiện ít giống như một người kỷ luật khập khiểng vì kỹ năng chính trị kém cỏi mà giống hơn một nhà tiên tri sáng suốt, đã lưu ý, lẽ ra có thể ngăn chặn tai họa toàn cầu lần thứ hai trong 20 năm. Lấy cảm hứng từ kết luận đó, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ trong và sau Thế chiến II đã đặt nền móng cho những gì họ hy vọng sẽ là một trật tự thế giới Wilsonian, trong đó các mối quan hệ quốc tế sẽ được hướng dẫn bởi các nguyên tắc được đưa ra trong Tuyên ngôn Nhân quyền và được tiến hành theo các quy tắc được thiết lập bởi các tổ chức như Liên hợp quốc, Tòa án Công lý Quốc tế và Tổ chức Thương mại Thế giới.

Nhiệm vụ này rất phức tạp do Chiến tranh Lạnh, nhưng “thế giới tự do” (như người Mỹ khi đó gọi là các quốc gia phi cộng sản) tiếp tục phát triển theo đường lối Wilsonian. Những thỏa hiệp bất khả kháng, chẳng hạn như sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với những nhà độc tài tàn nhẫn và những nhà cầm quyền quân sự nhiều nơi trên thế giới, được coi là những điều cần thiết đáng tiếc do nhu cầu chống lại cái ác lớn hơn nhiều của chủ nghĩa cộng sản Liên Xô. Khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, có vẻ như cơ hội cho một trật tự thế giới Wilsonian cuối cùng đã đến. Đế chế của Liên Xô trước đây có thể được tái thiết theo lối Wilsonian, và phương Tây có thể áp dụng các nguyên tắc Wilsonian một cách nhất quán hơn bây giờ khi mối đe dọa của Liên Xô đã biến mất. Quyền tự quyết, pháp quyền giữa và trong các quốc gia, kinh tế tự do và bảo vệ nhân quyền: “trật tự thế giới mới” mà cả chính quyền George H. W. Bush và Clinton đã nỗ lực tạo ra đều nằm trong khuôn khổ của Wilsonian.

Tuy nhiên, ngày nay thực tế quan trọng nhất trong chính trị thế giới là nỗ lực cao cả này đã thất bại. Giai đoạn tiếp theo trong lịch sử thế giới sẽ không mở ra theo kiểu Wilsonian. Các quốc gia trên trái đất sẽ tiếp tục tìm kiếm một số loại trật tự chính trị, bởi vì họ phải như vậy. Và các nhà hoạt động nhân quyền và những người khác sẽ tiếp tục làm việc hướng tới các mục tiêu của họ. Nhưng giấc mơ về một trật tự phổ quát, dựa trên luật lệ, đảm bảo hòa bình giữa các quốc gia và nền dân chủ bên trong chúng sẽ ngày càng ít xuất hiện trong việc làm của các nhà lãnh đạo thế giới.

Nói ra sự thật này không phải để hoan nghênh nó. Có nhiều lợi thế đối với trật tự thế giới Wilsonian, ngay cả khi trật tự đó là từng phần và không hoàn chỉnh. Nhiều nhà phân tích, một số có liên quan đến chiến dịch tranh cử tổng thống của cựu Phó Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden, nghĩ rằng họ có thể đặt Humpty Dumpty lại với nhau. Một người chúc họ thành công. Nhưng các lực ly tâm xé toạc trật tự Wilsonian đã ăn sâu vào bản chất của thế giới đương đại đến nỗi ngay cả khi kết thúc thời đại Trump cũng không thể hồi sinh dự án Wilsonian ở dạng tham vọng nhất của nó. Mặc dù những lý tưởng của Wilsonian sẽ không biến mất và sẽ có ảnh hưởng tiếp tục tư tưởng Wilsonian đối với các chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, nhưng những ngày tháng yên bình của thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh, khi các tổng thống Mỹ tổ chức các chính sách đối ngoại của họ theo các nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế tự do, khó có thể sớm quay trở lại bất cứ lúc nào.

TRẬT TỰ CHO TẤT CẢ

Chủ nghĩa Wilson (Wilsonianism) chỉ là một trong rất nhiều phiên bản dựa trên luật lệ của trật tự thế giới. Hệ thống Westphalia, xuất hiện ở châu Âu sau khi Chiến tranh Ba mươi năm kết thúc vào năm 1648, và hệ thống Quốc hội, nảy sinh sau Chiến tranh Napoléon vào đầu thế kỷ XIX, đều dựa trên quy tắc và thậm chí dựa trên luật; một số ý tưởng nền tảng của luật quốc tế có từ những thời đại đó. Và Đế chế La Mã Thần thánh - một tập hợp các lãnh thổ xuyên quốc gia trải dài từ Pháp đến Ba Lan ngày nay và từ Hamburg đến Milan - là một hệ thống quốc tế báo trước cho Liên minh Châu Âu, với các luật lệ phức tạp điều chỉnh mọi thứ, từ thương mại đến thừa kế chủ quyền giữa các dòng tộc vương giả giàu có.

Đối với nhân quyền vào đầu thế kỷ XX, hệ thống châu Âu thời kỳ tiền-Wilsonian đã vận động cho một thế kỷ theo hướng đưa những vi phạm nghiêm trọng về nhân quyền vào chương trình nghị sự quốc tế. Sau đó, như bây giờ, chủ yếu là các nước yếu có hành vi áp bức thu hút nhiều sự chú ý nhất. Vụ giết người diệt chủng người thiểu số Cơ đốc giáo Ottoman dưới bàn tay của quân đội Ottoman và các lực lượng nổi loạn vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 về cơ bản nhận được nhiều sự chú ý hơn so với những hành động tàn bạo được thực hiện cùng thời gian bởi các lực lượng Nga chống lại các dân tộc Hồi giáo nổi loạn Causasus. Không có phái đoàn nào của các cường quốc châu Âu đến Washington để thảo luận về việc đối xử với người Mỹ bản địa (native Americans) hoặc để đưa ra đại diện liên quan đến tình trạng của người Mỹ gốc Phi (african Americans). Tuy nhiên, trật tự châu Âu thời kỳ tiền-Wilsonian đã thay đổi đáng kể theo hướng nâng nhân quyền lên ngang tầm ngoại giao.

Do đó, Wilson đã không giới thiệu các ý tưởng về trật tự thế giới và nhân quyền cho một tập hợp các quốc gia vô chính phủ trước đây và các chính thể chưa được khai sáng. Thay vào đó, nhiệm vụ của ông là cải tổ một trật tự quốc tế hiện có mà những khiếm khuyết của nó đã được chứng minh một cách rõ ràng bởi sự khủng khiếp của Thế chiến I. Trật tự trong thời kỳ tiền-Wilsonian, các nhà cai trị triều đại đã thành lập thường được coi là hợp pháp và những can thiệp như cuộc xâm lược Hungary của Nga năm 1849, khôi phục quyền cai trị của Habsburg, được coi là hợp pháp. Ngoại trừ trong những trường hợp rõ ràng hiển nhiên, các quốc gia ít nhiều tự do đối xử với công dân hoặc đối tượng như họ muốn, và mặc dù các chính phủ kỳ vọng sẽ tuân thủ các nguyên tắc được chấp nhận của luật pháp quốc tế, nhưng không có bộ phận siêu quốc gia nào chịu trách nhiệm thực thi các tiêu chuẩn này. Việc duy trì cán cân quyền lực được viện dẫn như một mục tiêu để hướng dẫn các quốc gia; chiến tranh, mặc dù đáng tiếc, được coi là một yếu tố hợp pháp của hệ thống. Theo quan điểm của Wilson, đây là những sai sót nghiêm trọng khiến các vụ va chạm trong tương lai không thể tránh khỏi. Để khắc phục chúng, ông đã tìm cách xây dựng một trật tự trong đó các quốc gia sẽ chấp nhận các hạn chế pháp lý có thể thực thi đối với hành vi trong nước và hành vi quốc tế của họ.

Điều đó chưa bao giờ thành hiện thực, nhưng cho đến những năm gần đây, trật tự thời hậu chiến do Hoa Kỳ lãnh đạo giống với tầm nhìn của Wilson ở các khía cạnh quan trọng. Và, cần lưu ý rằng tầm nhìn không phải là chết như nhau ở mọi nơi. Mặc dù Wilson là người Mỹ, nhưng quan điểm của ông về trật tự thế giới trước hết đã được phát triển như một phương pháp để quản lý chính trị quốc tế ở châu Âu và chính ở châu Âu, nơi các ý tưởng của Wilson đã thành công rực rỡ nhất và là nơi triển vọng của chúng tiếp tục phát triển mạnh mẽ nhất. Những ý tưởng của ông đã bị hầu hết các chính khách châu Âu coi thường một cách cay đắng và hoài nghi khi ông đề xuất chúng lần đầu tiên, nhưng sau đó chúng đã trở thành nền tảng cơ bản của trật tự châu Âu, được lưu giữ trong luật pháp và thông lệ của EU. Có thể cho rằng, không có người cai trị nào kể từ Charlemagne gây được ấn tượng sâu sắc đối với trật tự chính trị châu Âu như vị Trưởng lão (Presbyterian) bị nhiều chế nhạo từ Thung lũng Shenandoah.

CÁNH CUNG LỊCH SỬ

Ngoài châu Âu, triển vọng cho trật tự Wilsonian rất ảm đạm. Tuy nhiên, những lý do đằng sau sự lưu lại của nó khác với những gì nhiều người giả định. Những người chỉ trích cách tiếp cận của Wilsonian đối với các vấn đề đối ngoại thường chê bai những gì họ coi là chủ nghĩa lý tưởng của nó. Trên thực tế, như Wilson đã chứng minh trong các cuộc đàm phán về Hiệp ước Versailles, ông ta hoàn toàn có khả năng trở thành người thực sự hoài nghi nhất khi nó phù hợp với ông. Vấn đề thực sự của Chủ nghĩa Wilson không phải là niềm tin ngây thơ vào những mục đích tốt đẹp mà là một cái nhìn đơn giản về quá trình lịch sử, đặc biệt là khi đề cập đến tác động của tiến bộ công nghệ đối với trật tự xã hội loài người. Vấn đề của Wilson không phải ông ta là một nhà lên mặt đạo đức mà là một người Whig.

Giống như những người tiến bộ đầu thế kỷ 20 nói chung và nhiều trí thức Mỹ cho đến ngày nay, Wilson là một nhà quyết định luận tự do của trường phái Anglo-Saxon; ông chia sẻ sự lạc quan về cái mà học giả Herbert Butterfield gọi là “các nhà sử học Whig”, các nhà tư tưởng người Anh thời Victoria, những người coi lịch sử loài người như một bản tường thuật về sự tiến bộ và tốt đẹp không thể thay đổi. Wilson tin rằng cái gọi là tự do có trật tự đặc trưng cho các nước Anh-Mỹ đã mở ra một con đường dẫn đến hòa bình và thịnh vượng vĩnh viễn. Niềm tin này đại diện cho một loại chủ nghĩa Hegel Anglo-Saxon và cho rằng sự kết hợp của thị trường tự do, chính phủ tự do và pháp quyền đã phát triển ở Vương quốc Anh và Hoa Kỳ chắc chắn sẽ biến đổi phần còn lại của thế giới — và điều đó quá trình này tiếp tục diễn ra, thế giới sẽ dần dần và phần lớn tự nguyện hội tụ những giá trị đã làm cho thế giới Anglo-Saxon trở nên giàu có, hấp dẫn và tự do như nó đã trở thành.

Wilson là người con tín mộ của một mục sư tin lành Calvin, đã thấm nhuần sâu sắc những lời dạy của Calvin về tiền định và quyền tối cao tuyệt đối của Đức Chúa Trời, và ông tin rằng con đường tiến bộ là định mệnh. Tương lai sẽ ứng nghiệm những lời tiên tri trong Kinh thánh về một thiên niên kỷ sắp tới: một triều đại ngàn năm của hòa bình và thịnh vượng trước khi con người hoàn thành viên mãn cuối cùng, khi Đấng Christ trở lại sẽ hợp nhất trời và đất. (Những người Wilsonians ngày nay đã tạo cho thuyết tất định này một khúc quanh thế tục: trong mắt họ, chủ nghĩa tự do sẽ thống trị tương lai và đưa nhân loại đến “tận cùng của lịch sử” là kết quả của bản chất con người chứ không phải mục đích thần thánh.)

Wilson tin rằng sự thất bại của đế quốc Đức trong Thế chiến thứ nhất và sự sụp đổ của các đế quốc Áo-Hung, Nga và Ottoman có nghĩa giờ của Liên minh các quốc gia toàn cầu cuối cùng đã đến. Vào năm 1945, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ, từ Eleanor Roosevelt và Henry Wallace phía tả đến Wendell Willkie và Thomas Dewey cánh hữu sẽ diễn giải sự sụp đổ của Đức và Nhật Bản theo cách giống nhau. Vào đầu những năm 1990, các nhà bình luận và hoạch định chính sách đối ngoại hàng đầu của Hoa Kỳ đã nhìn nhận sự sụp đổ của Liên Xô qua lăng kính xác định tương tự: như một tín hiệu cho thấy đã đến lúc cần có một trật tự thế giới thực sự toàn cầu và thực sự tự do. Trong cả ba lần, những người xây dựng trật tự Wilsonian dường như đã nhìn thấy mục tiêu của họ. Nhưng mỗi lần, giống như Ulysses, chúng lại bị thổi bay bởi những cơn gió ngược chiều.

NHỮNG KHÓ KHĂN KỸ THUẬT

Ngày nay, những cơn gió đó đang được tiếp thêm sức mạnh. Bất cứ ai hy vọng sẽ phục hồi dự án Wilsonian đang phát triển mạnh mẽ đều phải đối mặt với một số trở ngại. Rõ ràng nhất là sự trở lại của địa chính trị dựa trên ý thức hệ. Trung Quốc, Nga và một số cường quốc nhỏ hơn liên kết với họ - chẳng hạn như Iran - nhìn nhận một cách chính xác những lý tưởng của Wilsonian là mối đe dọa chết người đối với các thỏa thuận trong nước của họ. Trước đó trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh, ưu thế của Hoa Kỳ đã triệt để đến mức các quốc gia đó đã cố gắng hạ thấp hoặc ngụy tạo sự phản đối của họ đối với sự đồng thuận ủng hộ dân chủ đang thịnh hành. Tuy nhiên, bắt đầu từ nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama và tiếp tục cho đến thời kỳ Trump, họ đã ít bị ức chế hơn. Coi chủ nghĩa Wilsonian là vỏ bọc cho tham vọng của Mỹ và ở một mức độ nào đó là tham vọng của EU, Bắc Kinh và Moscow ngày càng táo bạo trong việc phản đối các ý tưởng và sáng kiến của Wilsonian bên trong các tổ chức quốc tế như LHQ và trên thực địa ở những nơi từ Syria đến Biển Đông.

Sự phản đối của các cường quốc này đối với trật tự Wilsonian có thể ăn mòn theo nhiều cách. Nó làm tăng rủi ro và chi phí cho các cường quốc Wilsonian khi can thiệp vào các cuộc xung đột vượt ra ngoài biên giới của họ. Ví dụ, hãy xem xét sự ủng hộ của Iran và Nga đối với chế độ Assad ở Syria đã giúp ngăn chặn Hoa Kỳ và các nước châu Âu tham gia trực tiếp hơn vào cuộc nội chiến của quốc gia đó như thế nào. Sự hiện diện của các cường quốc trong liên minh chống Wilsonian cũng cung cấp nơi trú ẩn và trợ giúp cho các cường quốc nhỏ hơn có thể không chọn chống lại hiện trạng. Cuối cùng, tư cách thành viên của các quốc gia như Trung Quốc và Nga trong các tổ chức quốc tế khiến các tổ chức đó khó hoạt động hơn để ủng hộ các chuẩn mực của Wilsonian: lấy ví dụ, quyền phủ quyết của Trung Quốc và Nga trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, cuộc bầu chọn những người chống Wilsonian đại diện cho các cơ quan khác nhau của Liên hợp quốc, và sự phản đối của các nước như Hungary và Ba Lan đối với các biện pháp của EU nhằm thúc đẩy pháp quyền.

Trong khi đó, dòng thác đổi mới và thay đổi công nghệ được gọi là “cuộc cách mạng thông tin” tạo ra những trở ngại cho các mục tiêu của Wilsonian trong các quốc gia và trong hệ thống quốc tế. Điều trớ trêu là những người theo chủ thuyết Wilson thường tin rằng tiến bộ công nghệ sẽ làm cho thế giới dễ quản lý hơn và chính trị hợp lý hơn — ngay cả khi nó làm tăng thêm nguy cơ chiến tranh bằng cách làm gia tăng hủy diệt hơn nữa. Chính bản thân Wilson cũng tin vào điều đó, những người xây dựng trật tự thời hậu chiến và những người theo chủ nghĩa tự do tìm cách mở rộng trật tự do Hoa Kỳ lãnh đạo sau Chiến tranh Lạnh cũng vậy. Tuy nhiên, mỗi lần niềm tin vào sự thay đổi công nghệ này lại bị đặt nhầm chỗ. Như đã thấy gần đây nhất với sự trỗi dậy của Internet, mặc dù các công nghệ mới thường góp phần vào việc truyền bá các ý tưởng và thực hành tự do, chúng cũng có thể làm suy yếu hệ thống dân chủ và hỗ trợ những chế độ độc tài.

Ngày nay, trong khi những công nghệ mới phá vỡ toàn bộ ngành công nghiệp và phương tiện truyền thông xã hội phủ sóng các phương tiện truyền thông tin tức và chiến dịch bầu cử, chính trị đang trở nên hỗn loạn và phân cực hơn ở nhiều quốc gia. Điều đó mang đến chiến thắng của các ứng cử viên theo chủ nghĩa dân túy và phản xây dựng từ cả cánh tả và cánh hữu có khả năng xảy ra ở nhiều nơi. Nó cũng khiến các nhà lãnh đạo quốc gia khó theo đuổi các thỏa hiệp mà hợp tác quốc tế tất yếu đòi hỏi và làm tăng khả năng các chính phủ sắp tới sẽ không chịu ràng buộc bởi các hành vi của những người tiền nhiệm của họ.

Cuộc cách mạng thông tin đang làm mất ổn định đời sống quốc tế theo những cách khác nhau khiến các định chế quốc tế dựa trên luật lệ khó đối phó hơn. Lấy ví dụ, vấn đề kiểm soát vũ khí, một mối quan tâm trung tâm của chính sách đối ngoại của Wilsonian kể từ Thế chiến I và là một vấn đề thậm chí còn quan trọng hơn sau sự phát triển của vũ khí hạt nhân. Wilsonian ưu tiên kiểm soát vũ khí không chỉ vì chiến tranh hạt nhân có thể hủy diệt loài người mà còn bởi vì, ngay cả khi không sử dụng, vũ khí hạt nhân hoặc tương đương của chúng đã đặt giấc mơ Wilson về một trật tự quốc tế hoàn toàn dựa trên luật lệ và luật pháp bảo vệ không thể đạt được. Vũ khí hủy diệt hàng loạt đảm bảo chính xác loại chủ quyền của nhà nước mà nhóm người Wilsonians cho rằng không tương thích với an ninh lâu dài của nhân loại. Người ta không thể dễ dàng tiến hành một cuộc can thiệp nhân đạo chống lại một cường quốc hạt nhân.

Cuộc chiến chống phổ biến vũ khí hạt nhân đã có những thành công, và việc phổ biến vũ khí hạt nhân đã bị trì hoãn - nhưng nó vẫn chưa dừng lại, và cuộc đấu tranh ngày càng khó khăn hơn theo thời gian. Vào những năm 1940, quốc gia giàu có nhất thế giới và một tập đoàn các nhà khoa học hàng đầu đã chế tạo vũ khí hạt nhân đầu tiên. Ngày nay, các cơ sở khoa học hạng hai và hạng ba ở các nước thu nhập thấp có thể làm được thành tích này. Điều đó không có nghĩa là nên từ bỏ cuộc đấu tranh chống phổ biến vũ khí. Nó chỉ đơn thuần là một lời nhắc nhở rằng không phải bệnh nào cũng có thuốc chữa.

Hơn nữa, tiến bộ công nghệ làm nền tảng cho cuộc cách mạng thông tin làm trầm trọng thêm vấn đề kiểm soát vũ khí. Sự phát triển của vũ khí mạng và khả năng của các tác nhân sinh học gây ra thiệt hại chiến lược cho kẻ thù — được chứng minh bằng đồ họa qua đại dịch COVID-19 — đóng vai trò cảnh báo rằng các công cụ chiến tranh mới sẽ khó giám sát hoặc kiểm soát hơn đáng kể so với công nghệ hạt nhân. Việc kiểm soát vũ khí hiệu quả trong những lĩnh vực này có thể không khả thi. Khoa học đang thay đổi quá nhanh, các nghiên cứu đằng sau chúng quá khó bị phát hiện và quá nhiều công nghệ quan trọng không thể bị cấm hoàn toàn vì chúng cũng có những ứng dụng dân sự có lợi.

Ngoài ra, các ưu đãi kinh tế không tồn tại trong Chiến tranh Lạnh hiện đang thúc đẩy các cuộc chạy đua vũ trang trong các lĩnh vực mới. Vũ khí hạt nhân và công nghệ tên lửa tầm xa cực kỳ đắt đỏ và mang lại ít lợi ích cho nền kinh tế dân sự. Ngược lại, nghiên cứu sinh học và công nghệ rất quan trọng đối với bất kỳ quốc gia hoặc công ty nào hy vọng duy trì khả năng cạnh tranh trong thế kỷ XXI. Một cuộc chạy đua vũ trang đa cực, không thể kiểm soát được trên một loạt các công nghệ tiên tiến đang diễn ra, và nó sẽ làm mất đi hy vọng về một trật tự Wilsonian được hồi sinh.

KHÔNG DÀNH CHO MỌI NGƯỜI

Một trong những giả định trung tâm đằng sau hành trình tìm kiếm một trật tự Wilsonian là niềm tin rằng khi các quốc gia phát triển, chúng trở nên giống với các quốc gia đã phát triển hơn và cuối cùng sẽ hội tụ theo mô hình tư bản tự do định hình Bắc Mỹ và Tây Âu. Dự án Wilsonian đòi hỏi mức độ hội tụ cao để thành công; các quốc gia thành viên của trật tự Wilsonian phải dân chủ, và họ phải sẵn sàng và có khả năng tiến hành các mối quan hệ quốc tế của mình trong các thể chế đa phương tự do.

Ít nhất là trong trung hạn, niềm tin vào sự hội tụ không còn được duy trì. Ngày nay, Trung Quốc, Ấn Độ, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ dường như ít có khả năng hội tụ vào nền dân chủ tự do hơn so với năm 1990. Các nước này và nhiều nước khác đã phát triển kinh tế và công nghệ không phải để trở nên giống phương Tây hơn mà là để đạt được một độc lập sâu xa hơn khỏi phương Tây và theo đuổi các mục tiêu văn minh và chính trị của riêng mình.

Trên thực tế, chủ nghĩa Wilsonianism là một giải pháp đặc biệt của châu Âu cho một nhóm vấn đề khó khăn riêng của châu Âu. Kể từ khi Đế chế La Mã sụp đổ, châu Âu được chia thành các đối thủ ngang hàng và gần ngang hàng. Chiến tranh là tình trạng thường xuyên của châu Âu trong phần lớn lịch sử của nó, và sự thống trị toàn cầu của châu Âu trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 có thể được cho một phần không nhỏ là do cuộc cạnh tranh lâu dài về ưu thế tối cao giữa Pháp và Vương quốc Anh, thúc đẩy sự phát triển trong lĩnh vực tài chính, tổ chức nhà nước, kỹ thuật công nghiệp, và nghệ thuật chiến tranh đã làm cho các quốc gia châu Âu trở thành những đối thủ cạnh tranh khốc liệt và hung dữ.

Với bóng ma của cuộc chiến tranh giữa các cường quốc liên tục đeo bám họ, các quốc gia châu Âu đã phát triển một hệ thống ngoại giao và chính trị quốc tế phức tạp hơn so với các quốc gia khác trên thế giới. Các thể chế và học thuyết quốc tế được phát triển tốt về tính hợp pháp đã tồn tại ở châu Âu trước khi Wilson đi thuyền qua Đại Tây Dương để thành lập Liên minh các quốc gia, về bản chất là một phiên bản nâng cấp của các hình thức quản trị quốc tế hiện có ở châu Âu. Mặc dù sẽ phải trải qua một cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc khác để đảm bảo rằng Đức, cũng như các nước láng giềng phương Tây, tuân thủ các quy tắc của một hệ thống mới, châu Âu đã chuẩn bị sẵn sàng cho việc thiết lập trật tự Wilsonian.

Nhưng kinh nghiệm của Châu Âu không phải là chuẩn mực toàn cầu. Mặc dù Trung Quốc thường xuyên bị xâm lược bởi những người du mục, và có những giai đoạn trong lịch sử khi một số quốc gia độc lập của Trung Quốc tranh giành quyền lực, Trung Quốc vẫn là một thực thể duy nhất trong phần lớn lịch sử của mình. Ý tưởng về một quốc gia hợp pháp duy nhất không thực có ngang hàng quốc tế đã ăn sâu vào văn hóa chính trị của Trung Quốc cũng như ý tưởng về một hệ thống đa quốc gia dựa trên sự thừa nhận lẫn nhau đã được đưa vào ở châu Âu. Đã có những cuộc đụng độ giữa người Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên, nhưng cho đến cuối thế kỷ XIX, xung đột giữa các quốc gia rất hiếm hoi.

Trong lịch sử nhân loại nói chung, các quốc gia văn minh lâu đời dường như điển hình hơn mô hình cạnh tranh của các quốc gia ngang hàng ở châu Âu. Ấn Độ thời kỳ đầu hiện đại bị thống trị bởi Đế chế Mughal. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Đế chế Ottoman và Ba Tư thống trị khu vực ngày nay được gọi là Trung Đông. Và người Inca và người Aztec không biết đối thủ thực sự trong khu vực của họ. Chiến tranh dường như phổ biến hoặc gần như vậy giữa các nền văn hóa nhân loại, nhưng mô hình châu Âu, trong đó chu kỳ chiến tranh leo thang buộc phải huy động và phát triển các nguồn lực công nghệ, chính trị và quan liêu để đảm bảo sự tồn tại của nhà nước, dường như đã không đặc thù hóa đời sống quốc tế trong phần còn lại của thế giới.

Đa phần đối với các quốc gia và dân tộc thế giới, vấn đề lịch sử hiện đại cần được giải quyết không phải là sự lập lại xung đột giữa các cường quốc. Thay vào đó, vấn đề là tìm ra cách để đánh bật các cường quốc châu Âu, vốn liên quan đến sự điều chỉnh kinh tế và văn hóa tệ hại để khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên và công nghiệp. Những cuộc tranh cãi khốc liệt của châu Âu đối với những người không phải châu Âu không phải là một thách thức văn minh tồn tại cần giải quyết mà là một cơ hội đáng hoan nghênh để đạt được độc lập.

Các quốc gia hậu thuộc địa và không thuộc phương Tây thường tham gia các thể chế quốc tế như một cách để khôi phục và nâng cao chủ quyền của họ, chứ không phải để từ bỏ nó, và lợi ích chính của họ trong luật pháp quốc tế là bảo vệ các quốc gia yếu khỏi các quốc gia mạnh, không hạn chế quyền lực của các nhà lãnh đạo quốc gia củng cố quyền lực của họ. Không giống như các đối tác châu Âu, các quốc gia này không có kinh nghiệm chính trị hình thành về các chế độ chuyên chế đàn áp bất đồng chính kiến và trưng dụng những người yếu kém vào phục vụ cho cuộc chinh phục thuộc địa. Thay vào đó, kinh nghiệm của họ liên quan đến ý thức nhục nhã về sự bất lực của chính quyền địa phương và giới ưu tú trong việc bảo vệ người dân và công dân của họ khỏi những hành động và sắc lệnh ngạo mạn của các thế lực ngoại bang. Sau khi chủ nghĩa thực dân chính thức chấm dứt và các quốc gia non trẻ bắt đầu khẳng định quyền kiểm soát đối với các lãnh thổ mới của họ, các vấn đề kinh điển về quản trị trong thế giới hậu thuộc địa vẫn là các quốc gia còn yếu kém và chủ quyền bị xâm phạm.

Ngay cả ở châu Âu, sự khác biệt về kinh nghiệm lịch sử giúp giải thích các mức độ cam kết khác nhau đối với lý tưởng Wilsonian. Các quốc gia như Pháp, Đức, Ý và Hà Lan khi đến với EU đều hiểu rằng họ có thể đáp ứng các mục tiêu quốc gia cơ bản chỉ bằng cách hợp nhất chủ quyền của mình. Tuy nhiên, đối với nhiều cựu thành viên Hiệp ước Warsaw, động cơ gia nhập các câu lạc bộ phương Tây như EU và NATO là để lấy lại chủ quyền đã mất của họ. Họ không chia sẻ cảm giác tội lỗi và hối hận về quá khứ thuộc địa — và, ở Đức, về Holocaust — đã khiến nhiều người ở Tây Âu nắm lấy ý tưởng về một cách tiếp cận mới đối với các vấn đề quốc tế, và họ không cảm thấy e ngại khi tham gia tận dụng các đặc quyền tư cách thành viên EU và NATO mà không hề cảm thấy bị ràng buộc theo bất kỳ cách nào bởi các nguyên lý đã nêu của các tổ chức đó, điều mà nhiều người coi là đạo đức giả.

CHUYÊN VIÊN/CHUYÊN VIÊN DÕM

Sự gia tăng gần đây của các phong trào dân túy trên khắp phương Tây đã tiết lộ một mối nguy hiểm khác đối với dự án Wilsonian. Nếu Hoa Kỳ có thể bầu Donald Trump làm tổng thống vào năm 2016, nó có thể làm gì trong tương lai? Tất cả cử tri ở các quốc gia quan trọng khác có thể làm gì? Và nếu trật tự Wilsonian đã trở nên gây tranh cãi ở phương Tây, thì triển vọng của nó ở phần còn lại của thế giới là gì?

Wilson đã sống trong kỷ nguyên mà nền cai trị dân chủ phải đối mặt với những vấn đề mà nhiều người lo sợ là không thể vượt qua. Cách mạng Công nghiệp đã chia rẽ xã hội Mỹ, tạo ra mức độ bất bình đẳng chưa từng có. Các tập đoàn và quỹ tín thác khổng lồ (Titanic corporations and trusts) đã có được quyền lực chính trị to lớn và khá ích kỷ khai thác sức mạnh đó để chống lại mọi thách thức đối với lợi ích kinh tế của họ. Khi đó, người giàu nhất nước Mỹ John D. Rockefeller có khối tài sản lớn hơn cả ngân sách hàng năm của chính phủ liên bang. Ngược lại, vào năm 2020, người Mỹ giàu nhất, Jeff Bezos, có giá trị tài sản ròng bằng khoảng 3% chi tiêu ngân sách liên bang.

Nhưng theo quan điểm của Wilson và những người tiến bộ của ông, giải pháp cho những vấn đề này không thể chỉ đơn giản là trao quyền lực cho các cử tri. Vào thời điểm đó, hầu hết người Mỹ vẫn có trình độ học vấn từ lớp 8 trở xuống, và làn sóng di cư từ châu Âu đã tràn ngập các thành phố đang phát triển của đất nước với hàng triệu cử tri không biết nói tiếng Anh, thường xuyên mù chữ và thường xuyên bỏ phiếu cho của bộ máy đô thị chính trị gia tham nhũng.

Câu trả lời của những người tiến bộ cho vấn đề này là hỗ trợ việc tạo ra một lớp chuyên gia phi chính trị gồm các nhà quản lý và quản trị viên. Những người tiến bộ đã tìm cách xây dựng một nhà nước hành chính có thể kiềm chế quyền lực quá mức của người giàu và khắc phục những khiếm khuyết về đạo đức và chính trị của người nghèo. (Ngăn Cấm [Probihition] là một phần quan trọng trong chương trình bầu cử của Wilson, và trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và sau đó, ông đã quyết liệt bắt giữ và trong một số trường hợp trục xuất những người theo chủ nghĩa xã hội và những người cấp tiến khác.) Thông qua các biện pháp như cải thiện giáo dục, giới hạn nghiêm ngặt về nhập cư, và chính sách kiểm soát ưu sinh sinh sản - những người tiến bộ hy vọng sẽ tạo ra những cử tri giáo dục tốt và có trách nhiệm hơn, những người sẽ ủng hộ một cách đáng tin cậy nhà nước kỹ trị.

Một thế kỷ sau, các yếu tố tư duy tiến bộ này vẫn quan trọng đối với việc cai trị Wilsonian ở Hoa Kỳ và các nơi khác, nhưng sự ủng hộ của công chúng sắp tới ít hơn so với trước đây. Internet và phương tiện truyền thông xã hội đã làm xói mòn sự tôn trọng đối với tất cả các hình thức chuyên môn. Các công dân bình thường ngày nay được giáo dục tốt hơn đáng kể và cảm thấy ít cần phải dựa vào sự hướng dẫn của chuyên gia hơn. Và các sự kiện bao gồm cuộc xâm lược của Hoa Kỳ vào Iraq năm 2003, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và các phản ứng thiếu năng lực của chính phủ trong đại dịch năm 2020 đã làm giảm sút nghiêm trọng niềm tin vào các chuyên gia và nhà kỹ trị, những người mà nhiều người coi là hình thành một “trạng thái lũng đoạn” (deep state) bất chính.

Các tổ chức quốc tế đối mặt với một cuộc khủng hoảng niềm tin lớn hơn nữa. Các cử tri hoài nghi giá trị chế độ kỹ trị của đồng bào mình thậm chí còn nghi ngờ nhiều hơn đối với các nhà kỹ trị nước ngoài (foreign technocrats) với những quan điểm mang tính quốc tế một cách đáng ngờ. Cũng giống như cư dân của các lãnh thổ thuộc địa châu Âu ưa thích chế độ cai trị tại gia (ngay cả khi bị quản lý tồi tệ) để cai trị bởi các công chức thuộc địa (ngay cả khi có thẩm quyền), nhiều người ở phương Tây và trong thế giới hậu thuộc địa có khả năng từ chối ngay cả những kế hoạch có ý định tốt nhất của các định chế toàn cầu.

Trong khi đó, ở các nước phát triển, những vấn đề như mất việc làm, lương bổng trì trệ hoặc suy giảm, tình trạng nghèo dai dẳng trong các nhóm thiểu số và đại dịch opioid đã chống lại các giải pháp kỹ trị. Và khi đối mặt với những thách thức quốc tế như biến đổi khí hậu và di cư ồ ạt, có rất ít bằng chứng cho thấy các thể chế quản trị toàn cầu cồng kềnh và các quốc gia hay cãi vã điều hành chúng sẽ tạo ra được những loại giải pháp rẻ tiền, thanh lịch có thể truyền cảm hứng cho niềm tin của công chúng.

BIDEN NHƯ THẾ NÀO

Vì tất cả những lý do này, phong trào rời khỏi trật tự Wilsonian có thể sẽ tiếp tục, và chính trị thế giới sẽ ngày càng được thực hiện theo những đường lối phi - Wilsonian và trong một số trường hợp, thậm chí có những đường lối chống - Wilsonian. Các tổ chức như NATO, Liên Hợp Quốc và Tổ chức Thương mại Thế giới có thể tồn tại tốt (sự kiên trì của bộ máy hành chính không bao giờ được giảm bớt), nhưng họ sẽ ít có khả năng hơn và có lẽ ít sẵn sàng thực hiện ngay cả những mục đích ban đầu của họ, ít phải đón nhận những thách thức mới. Trong khi đó, trật tự quốc tế sẽ ngày càng được định hình bởi các quốc gia đang trên con đường phân hóa. Điều này không có nghĩa là một tương lai không thể tránh khỏi của các cuộc đụng độ văn minh, nhưng nó có nghĩa là các thể chế toàn cầu sẽ phải thích nghi nhiều quan điểm và giá trị hơn so với trước đây.

Có hy vọng rằng nhiều thành tựu của trật tự Wilsonian có thể được bảo tồn và có lẽ trong một số lĩnh vực thậm chí còn được mở rộng. Nhưng việc gắn bó với những vinh quang trong quá khứ sẽ không giúp phát triển những ý tưởng và chính sách cần thiết trong thời điểm ngày càng nguy hiểm. Các trật tự phi Wilsonian đã tồn tại ở cả châu Âu và các nơi khác trên thế giới trong quá khứ, và các quốc gia trên thế giới có thể sẽ cần dựa trên những ví dụ này khi họ tìm cách tập hợp một số loại khuôn khổ cho sự ổn định và nếu có thể, hòa bình trong điều kiện đương đại.

Đối với các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ, cuộc khủng hoảng đang phát triển của trật tự Wilsonian trên toàn thế giới đưa ra những vấn đề khó chịu có khả năng khiến chính quyền tổng thống bận tâm trong nhiều thập kỷ tới. Một vấn đề là nhiều quan chức nghề nghiệp và tiếng nói mạnh mẽ trong Quốc hội, các tổ chức xã hội dân sự, và báo chí tin tưởng sâu sắc rằng chính sách đối ngoại của Wilsonian không chỉ là điều tốt và hữu ích cho Hoa Kỳ mà còn là con đường duy nhất dẫn đến hòa bình và an ninh và thậm chí cho sự tồn vong của nền văn minh và nhân loại. Họ sẽ tiếp tục chiến đấu cho chính nghĩa của mình, chỉ đạo chiến hào bên trong bộ máy thư lại và sử dụng quyền giám sát của Quốc hội cũng như các thông tin rò rỉ đều đặn đến các cơ sở báo chí đồng cảm để giữ ngọn lửa tồn tại.

Những phe phái đó sẽ bị ràng buộc bởi thực tế là bất kỳ liên minh quốc tế chủ nghĩa nào trong chính sách đối ngoại của Mỹ đều phải dựa vào các cử tri Wilsonian ở một mức độ đáng kể. Nhưng một thế hệ tiếp cận quá mức và phán đoán chính trị kém đã làm giảm đáng kể mức độ tin cậy của các ý tưởng của Wilsonian đối với cử tri Mỹ. Cả thảm họa xây dựng đất nước của Tổng thống George W. Bush ở Iraq hay thất bại can thiệp nhân đạo của Obama ở Libya đều không đánh bại hầu hết người Mỹ xem như là thành công, và có ít sự nhiệt tình của công chúng đối với việc xây dựng nền dân chủ ở nước ngoài.

Nhưng chính sách đối ngoại của Mỹ luôn là vấn đề liên minh. Như tôi đã viết trong cuốn sách Sự quan phòng Đặc biệt (Special Providence), Wilsonians là một trong bốn trường phái đã cạnh tranh để định hình chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ thế kỷ thứ mười tám. Những người Hamiltonians muốn tổ chức chính sách đối ngoại của Mỹ xung quanh một chính phủ quốc gia quyền lực liên kết chặt chẽ với thế giới tài chính và mậu dịch quốc tế. Wilsonians muốn xây dựng một trật tự thế giới dựa trên dân chủ, nhân quyền và pháp quyền. Những người theo chủ nghĩa dân túy Jacksonian nghi ngờ việc kinh doanh lớn và các cuộc thập tự chinh của người Wilsonian nhưng lại muốn có một quân đội mạnh mẽ và các chương trình kinh tế dân túy. Jeffersonians muốn hạn chế các cam kết và can dự của Mỹ ở nước ngoài. (Một trường phái thứ năm, trong đó Jefferson Davis, chủ tịch Liên minh miền Nam, là người đề xuất hàng đầu, đã xác định lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ xung quanh việc bảo tồn chế độ nô lệ.) Hamiltonians và Wilsonians phần lớn thống trị việc hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ sau Chiến tranh Lạnh, nhưng Obama bắt đầu giới thiệu lại một số ý tưởng của Jeffersonian về sự kiềm chế, và sau cuộc khủng hoảng ở Libya, sở thích của ông đối với cách tiếp cận đó rõ ràng đã được củng cố. Trump, người đã treo bức chân dung của Tổng thống Andrew Jackson trong Phòng Bầu dục, đã tìm cách xây dựng một liên minh dân tộc chủ nghĩa Jacksonians và Jeffersonians chống lại liên minh toàn cầu Hamiltonians và Wilsonians đã phát triển từ Thế chiến thứ hai.

Ngay cả khi chính quyền Biden hướng chính sách đối ngoại của Mỹ thoát khỏi chủ nghĩa dân tộc của thời Trump, họ sẽ cần phải điều chỉnh lại sự cân bằng giữa cách tiếp cận của Wilsonian và các ý tưởng của các trường phái khác trong bối cảnh các điều kiện chính trị trong và ngoài nước đã thay đổi. Việc điều chỉnh tương tự đã được thực hiện trong quá khứ. Trong những năm đầu đầy hy vọng của thời kỳ hậu chiến, những người Wilsonians như Eleanor Roosevelt muốn chính quyền Truman ưu tiên hàng đầu của việc hỗ trợ LHQ. Harry Truman và nhóm của ông đã sớm thấy rằng chống lại Liên Xô là quan trọng nhất và bắt đầu đặt nền móng cho Chiến tranh Lạnh và ngăn chặn. Sự thay đổi này diễn ra gay gắt, và Truman chỉ xoay xở để lấy được sự tán thành lãnh đạm từ Roosevelt trong cuộc bầu cử năm 1948 đầy cam go. Nhưng một số lượng lớn then chốt của Đảng Dân chủ Wilsonian chấp nhận logic rằng đánh bại chủ nghĩa cộng sản Stalin là một kết thúc biện minh cho các phương tiện nghi vấn mà cuộc đấu tranh chiến tranh Lạnh đòi hỏi. Biden có thể học hỏi từ ví dụ này. Việc cứu hành tinh khỏi thảm họa khí hậu và xây dựng một liên minh để chống lại Trung Quốc là những nguyên nhân mà nhiều người Wilsonians sẽ đồng ý cả yêu cầu và biện minh cho sự thiếu thận trọng nhất định khi phải lựa chọn cả đồng minh và chiến thuật.

Chính quyền Biden cũng có thể sử dụng các kỹ thuật mà các tổng thống trước đây đã sử dụng để có được sự ủng hộ của nhóm người Wilsonians. Một là gây áp lực cho các quốc gia yếu kém nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Washington để thực hiện nhiều điểm nóng cải cách. Cách khác là cung cấp ít nhất sự có mặt hỗ trợ cho các cảm hứng sáng kiến ít có triển vọng thành công. Là một nhóm, Wilsonians quen với thất bại danh dự và thường sẽ ủng hộ các chính trị gia dựa trên ý định cao cả (được cho là) của họ mà không đòi hỏi quá nhiều vào sự thành công.

Có những cách khác, kém Machiavellian hơn để giữ cho nhóm người Wilsonians tham gia. Ngay cả khi các mục tiêu tối hậu của chính sách Wilsonian trở nên kém khả thi hơn, có những vấn đề cụ thể mà chính sách thông minh và tập trung của Mỹ có thể tạo ra kết quả mà nhóm người Wilsonian ưa thích. Hợp tác quốc tế để làm cho việc rửa tiền trở nên khó khăn hơn và xóa bỏ các thiên đường thuế là một trong những lĩnh vực có thể đạt được tiến bộ. Mối quan tâm đối với sức khỏe cộng đồng quốc tế có thể sẽ vẫn còn mạnh mẽ trong một số năm sau khi đại dịch COVID-19 kết thúc. Thúc đẩy giáo dục cho các nhóm phục vụ còn yếu kém ở nước ngoài — phụ nữ, dân tộc thiểu số và tôn giáo, người nghèo — là một trong những cách tốt nhất để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn và nhiều chính phủ từ chối lý tưởng chung Wilsonian có thể chấp nhận sự hỗ trợ từ bên ngoài cho những nỗ lực như vậy trong lãnh thổ của họ miễn là những điều này dứt khoát không được liên kết với một chương trình chính trị nào khác.

Hiện tại, Hoa Kỳ và thế giới đang ở trong tình trạng suy thoái Wilsonian. Nhưng không có gì trong chính trị trường tồn mãi mãi, và hy vọng là một thứ khó hủy diệt. Tầm nhìn Wilsonian đã được cấy ghép quá sâu vào văn hóa chính trị Mỹ, và các giá trị mà nó nói lên có quá nhiều sức hấp dẫn toàn cầu, để viết cáo phó cho nó lúc này.

WALTER RUSSELL MEAD is James Clarke Chace Professor of Foreign Affairs and the Humanities at Bard College, the Global View columnist at The Wall Street Journal, and a Distinguished Fellow at the Hudson Institute.

 
 

Hồ Lạc Hồng dịch

___________________________________________
[1] The End of The Wilsonian Era– Why Liberal Internationalism Failed_Walter Russell Mead - Foreign Affairs January/February, 2021
[2] An international system that would rest on a moral consensus upheld by a concert of powers that would operate from a shared set of ideas about legitimate sovereignty.