ƯỚC TÍNH KINH TẾ TRUNG QUỐC

Cái Giá của Cải cách Thất bại [1]


Daniel H. Rosen
July/August, 2021
 
 
 

Paul Langrock / Zenit / Laif / Redux

Nhiều nhà quan sát nhìn vào Trung Quốc thấy sự lãnh đạo tài giỏi một cuộc chơi. Họ thấy Trung Quốc từ chối vận dụng mềm dẻo các chính sách để phù hợp với các chuẩn mực toàn cầu và thành công đi theo con đường riêng của mình. Thực tế là Bắc Kinh đã nhiều lần cố gắng uốn nắn dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình nhưng hầu như lần nào cũng bị phá vỡ và phải quay lại với những cách làm cũ - vốn không thành công. Cả số lượng và chất lượng tăng trưởng của Trung Quốc (nhìn qua những bất thường của thời kỳ đại dịch) đều xấu đi. Và trừ phi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc quay trở lại con đường tự do hóa kinh tế, tương lai của Trung Quốc sẽ rất khác so với bức tranh màu hồng mà ĐCSTQ vẽ ra.

Sự cấp thiết của cải cách là kết quả đáng mừng việc Trung Quốc vươn lên vị thế thu nhập trung bình từ tình trạng nghèo khó cùng cực mà nước này đã trải qua chỉ vài thập kỷ trước. Nó không có gì phải xấu hổ. Nhưng sự hoan nghênh mà Trung Quốc giành được cho những thành công kinh tế của họ sẽ giảm đi nếu ông Tập thất bại trong việc cho phép tranh luận chính sách và chấp nhận hơn các hạn chế tham vọng chính trị mà thừa nhận khả năng giới hạn của ĐCSTQ.

Một đánh giá trung thực về những thất bại gần đây cho thấy rằng thời gian không còn nhiều. Các nhà đầu tư và doanh nghiệp ở Trung Quốc và nước ngoài, cũng như các chính phủ khác, cho đến nay vẫn giả vờ rằng Trung Quốc đang thành công trong việc cải cách hoặc chọn cách trì hoãn nó một cách dễ hiểu; ít người sẵn sàng kết luận rằng Trung Quốc đã cố gắng cải cách nhưng không thành công. Ông Tập có thể tin rằng ông còn một thập kỷ nữa để điều chỉnh mô hình kinh tế của đất nước. Việc xem xét nhiều kế hoạch chính sách lớn mà ĐCSTQ đã đưa ra nhưng sau đó bị từ bỏ cho thấy ngược lại: chỉ có ít nhất một vài năm để hành động trước khi tăng trưởng cạn kiệt. Nếu các nhà lãnh đạo của Trung Quốc chờ đợi cho đến phút cuối cùng, thì sẽ quá muộn.

MẮC KẸT Ở GIỮA

Trong những năm gần đây, phe diều hâu của Trung Quốc tại Hoa Kỳ đã khẳng định rằng họ đã đúng tất cả: Trung Quốc đã không cải cách và không bao giờ có ý định làm như vậy. Một số người thậm chí còn cho rằng ĐCSTQ đã lừa dối Washington từ năm 1972, khi Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đến Trung Quốc và bình thường hóa quan hệ với Bắc Kinh. Theo quan điểm này, Trung Quốc chỉ giả vờ khao khát tự do hóa. Đó là cách hiểu sai về lộ trình kinh tế của Trung Quốc. Trong thời kỳ cải cách do Đặng Tiểu Bình khởi xướng vào năm 1978, đảng đã nới lỏng quyền kiểm soát của mình đối với các lực lượng kinh tế như lạm phát, dòng vốn nội bộ và thất nghiệp. Để thúc đẩy tăng trưởng và đổi mới, Bắc Kinh để người nước ngoài vào các góc nhạy cảm về mặt chiến lược của nền kinh tế Trung Quốc, chẳng hạn như viễn thông và hàng không vũ trụ. Những thiêng liêng cấm kỵ (sacred cows) của ý thức hệ cộng sản đã phải hy sinh trên đường đi. Khi Đặng bắt đầu quá trình cải cách, nhà nước đang ấn định hầu hết các mức giá cho hàng hóa và dịch vụ; vào thời điểm Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001, ngoại trừ một ít mức giá đặc biệt, tất cả đã được ấn định bởi cạnh tranh thị trường. Trong những năm 1990, ĐCSTQ đã cho phép hơn 100.000 công ty quốc doanh đóng cửa, dẫn đến hơn 20 triệu người bị mất việc. Đến năm 2020, đảng đã cho phép người nước ngoài xây dựng các doanh nghiệp trị giá 3 nghìn tỷ USD ở Trung Quốc, nhiều doanh nghiệp trong số đó cạnh tranh trực tiếp với các công ty đương nhiệm của Trung Quốc.

Tuy nhiên, các động thái chính sách này có ý nghĩa quan trọng, chúng là phần dễ dàng: chủ yếu yêu cầu các quan chức phải tránh ra khỏi con đường. Các quan chức không phát triển thị trường; họ để thị trường phát triển khỏi đầm lầy kế hoạch chính phủ. Sự can thiệp của nhà nước giảm và việc dỡ bỏ các rào cản đầu tư xuyên biên giới, chi phí nội bộ và thuế đã làm chuyển đổi quỹ đạo kinh tế của Trung Quốc. Trong những thập kỷ sau năm 1978, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm từ 5,5% trở xuống - điển hình cho các nước thu nhập thấp - đã tăng tốc lên mức hai con số, biến Trung Quốc thành một nước tăng trưởng kinh khiếp kinh tế (an economic juggenaut).

Nhưng vào thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra vào năm 2008, Bắc Kinh đã hái được trái ngọt. Để đảm bảo tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ, bên này cần phải dựa vào, thúc đẩy quản trị tốt và cạnh tranh bình đẳng, đồng thời áp đặt các ràng buộc cứng rắn đối với đầu tư lãng phí - giải quyết những thách thức mà bất kỳ nhà nước quản lý hiện đại thành công nào phải đối mặt. Tuy nhiên, trong bốn năm tiếp theo, tín dụng dễ dàng đã trở thành công cụ chính của Bắc Kinh và chi phí dịch vụ nợ hàng năm tăng từ ước tính ba nghìn tỷ lên tám nghìn tỷ nhân dân tệ. Khi Tập Cận Bình lên đứng đầu ĐCSTQ vào năm 2012, tốc độ tăng trưởng đã chậm lại ở mức một con số và lợi tức đầu tư của nhà nước vào cơ sở hạ tầng đang giảm xuống. Đây là cái mà các nhà kinh tế gọi là “bẫy thu nhập trung bình”(the middle-income trap): một khi một quốc gia thoát khỏi đói nghèo, việc tăng trưởng sẽ trở nên khó khăn hơn.

Tập Cận Bình lên nắm quyền với sự ủy nhiệm phụ trách toàn bộ. Ngay từ đầu, ông đã tiến tới củng cố quyền lực của chính mình, thu nhỏ Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị từ chín thành viên xuống còn bảy thành viên và đích thân chủ trì hầu như tất cả các nhóm quan trọng chịu trách nhiệm hoạch định chính sách. Là người có quan điểm chính yếu về kinh tế, ông Tập đã chọn Lưu Hạc (Liu He), một người nổi tiếng ủng hộ thị trường hóa. Ông Tập đã đặt ra tiêu chuẩn cao cho việc cải cách, ban hành một tuyên ngôn vào năm 2013 được gọi là “60 Quyết định”. Ông cam kết làm cho thị trường trở nên “quyết định” trong việc hướng dẫn các kết quả kinh tế và tái hiện vai trò của chính phủ theo cách mà các nhà kinh tế phương Tây tự do sẽ hoan nghênh: duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, cung cấp các dịch vụ công, đảm bảo cạnh tranh và điều tiết công bằng, và giải quyết các thất bại của thị trường. Các nhà kinh tế học của ông Tập đã thuyết phục rằng nếu không có hành động táo bạo, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với bẫy nợ nội bộ của chính mình. Trong năm đầu tiên cầm quyền, ông Tập đã viết nếu đảng không thành công trong việc chuyển đổi nền kinh tế, “chúng ta sẽ thấy mình đang ở trong một con hẻm mù mịt”.

Lưu Hạc phải làm việc. Vào mùa xuân năm 2013, các nhà hoạch định chính sách đã đặt mục tiêu vào các bộ phận của hệ thống tài chính đang căng thẳng với các khoản nợ rủi ro. Các ngân hàng đang phát hành các sản phẩm quản lý tài sản ngắn hạn với lãi suất cao và sử dụng số tiền thu được để đầu tư vào các tài sản dài hạn rủi ro hơn. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, ngân hàng trung ương của đất nước, đã quyết định gây sốc cho các ngân hàng đó về hành vi tốt hơn bằng cách cắt đứt khả năng tiếp cận nguồn vốn ngắn hạn của họ. Động thái này đã gây ra những hậu quả khôn lường: các ngân hàng ngạc nhiên đến mức ngừng cho vay ngay lập tức, khiến lãi suất vay ngắn hạn tăng từ khoảng hai hoặc ba phần trăm lên từ 20 đến 30 phần trăm. Thị trường chứng khoán Trung Quốc giảm mạnh hơn 10% khi các nhà giao dịch cố gắng tiếp cận tiền mặt thông qua bất kỳ tài sản thanh khoản nào có sẵn. PBOC nhanh chóng hỗ trợ và khôi phục nguồn vốn ngắn hạn cho các ngân hàng. Tuy nhiên, như ngân hàng trung ương đã lo sợ, điều này chỉ khiến họ phải chấp nhận rủi ro nhiều hơn. Từ năm 2013 đến năm 2016, vay qua thị trường tiền tệ ngắn hạn đã tăng lên gấp bội, và bùng nổ cái gọi là cho vay bóng tối, với việc các ngân hàng Trung Quốc cung cấp tiền cho các tổ chức bên thứ ba, từ đó tìm kiếm lợi nhuận cao hơn bằng cách thông qua các kênh không được kiểm soát ( chẳng hạn như cung cấp các khoản vay ký quỹ để đầu cơ thị trường chứng khoán) và bằng cách cho vay những người đi vay rủi ro hơn.

HAI BƯỚC TIẾN, HAI BƯỚC LÙI

Cuộc khủng hoảng thị trường liên hiệp ngân hàng này chỉ là dấu hiệu đầu tiên cho thấy những gì đã trở thành khuôn mẫu trong thời ông Tập: những nỗ lực cải cách táo bạo sau đó là rút lui khi những nỗ lực đó gây ra bất ổn và biến động. Mô hình này tái diễn vào năm 2014, khi Bắc Kinh thực hiện các bước để giúp các công ty Trung Quốc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài dễ dàng hơn, một điều cần thiết nếu họ tăng từ ngành sản xuất hàng hóa cơ bản đến xuất khẩu để điều hành các doanh nghiệp toàn cầu. Và họ đã đầu tư, với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng từ 73 tỷ đô la năm 2013 lên mức cao 216 tỷ đô la vào năm 2016. Sự bùng nổ của đầu tư ra nước ngoài đáng kể hơn nhiều so với dự đoán của bất kỳ ai. Một số khoản đầu tư này đã mang lại cho Trung Quốc quyền tự hào với tư cách là một công ty toàn cầu - ví dụ như việc mua lại Anbang Insurance của Waldorf Astoria và tài trợ cho liên doanh với Carnival Cruise Lines của China Investment Corporation, một quỹ tài sản có chủ quyền. Nhưng khi những tài sản nước ngoài này chồng chất, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc, được tích lũy trong nhiều năm nhờ thặng dư thương mại nhất quán, đã giảm gần một phần tư (từ gần 4 nghìn tỷ USD xuống dưới 3 nghìn tỷ USD) khi các nhà đầu tư Trung Quốc tìm kiếm đô la để đầu tư ra nước ngoài. Vào cuối năm 2016, ĐCSTQ, lo lắng về dòng tiền chảy ra nhanh chóng, đã quyết định rằng cải cách có thể chờ đợi và áp dụng lại các biện pháp kiểm soát vốn. Đầu tư ra nước ngoài đã bị đình trệ kể từ đó.

Chính sách thuế là một lĩnh vực khác mà ban đầu ông Tập đã tích cực thực hiện. Vào tháng 6 năm 2014, Bộ Chính trị đã phê duyệt kế hoạch cải cách thuế và tài khóa quốc gia, trong đó, cùng với những thứ khác, kêu gọi Bộ Tài chính, do Lou Jiwei đứng đầu, kiềm chế việc vay và chi tiêu của chính quyền địa phương và đưa ra các loại thuế tài sản. Những nhiệm vụ đó được cho là sẽ hoàn thành vào năm 2016. Tuy nhiên, đã quá thời hạn 5 năm, Bộ đạt được rất ít tiến bộ; Nợ chính quyền địa phương thực sự đã tăng lên từ khi các cải cách được khởi xướng, và Lou hiện đã nghỉ hưu công khai cảnh báo về những rủi ro tài chính đang rình rập hệ thống.

Biết rằng chi tiêu của chính phủ không thể thúc đẩy tăng trưởng mãi mãi, nhóm của ông Tập đã chuyển sang lĩnh vực doanh nghiệp. Tập Cận Bình cam kết giảm bớt vai trò độc đoán của nhà nước và nhường chỗ cho các doanh nghiệp quản lý hoạt động thương mại của họ mà ít can thiệp chính trị hơn. Các chương trình thí điểm được đặt ra để trao quyền cho các giám đốc độc lập đưa ra quyết định về chiến lược và lãnh đạo, giảm bớt vai trò của các ủy ban ĐCSTQ. Các cải cách khác được cho là phải làm rõ những ngành nào phù hợp nhất với sự cạnh tranh của thị trường và những ngành nào cần sự kiểm soát của nhà nước. Tuy nhiên, cả hai nỗ lực đó đều bị đình trệ và kể từ năm 2017, đảng vẫn tiếp tục nắm giữ mọi công việc liên hiệp công ty tại các công ty liên quan đến nhà nước và tìm cách gia tăng ảnh hưởng của mình đối với các công ty tư nhân, bao gồm cả các công ty nước ngoài.

Khi ông Tập lên nắm quyền, đảng cũng cố gắng mở cửa thị trường chứng khoán để giảm bớt gánh nặng tài chính cho các ngân hàng nhà nước. Mức nợ của chính quyền địa phương và các doanh nghiệp nhà nước là một nỗi lo thường trực, và viễn cảnh sử dụng niêm yết trên thị trường chứng khoán để xóa nợ là không thể cưỡng lại được. Bắc Kinh ghen tị với sự năng động của thị trường chứng khoán phương Tây. Vào năm 2013, chính phủ đã đơn giản hóa các yêu cầu đối với các đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng và trong vòng một năm, 48 đợt IPO đã được hoàn thành và 28 đợt khác đã được các cơ quan quản lý xóa. Các viên chức cũng dỡ bỏ các hạn chế đối với giao dịch ký quỹ, và các bài xã luận trên các tờ báo do nhà nước kiểm soát đã khuyến khích mọi người đổ vào các cổ phiếu ngày càng sôi động. Chẳng bao lâu, Trung Quốc đã nhìn thấy mặt trái bước đi của mình. Vào tháng 6 năm 2015, sau khi sự ủng hộ chính thức cho xu hướng không bền vững được đưa ra nghi vấn, bong bóng đã vỡ: trong vòng một tháng, thị trường mất một phần ba giá trị. Ngày nay, bất chấp sự mở rộng đáng kể của nền kinh tế nói chung, thị trường vẫn thấp hơn 25% so với mức cao nhất năm 2015.

HẬU QUẢ KHÔNG LƯỜNG

Ngân hàng là một lĩnh vực khác mà ông Tập hy vọng sẽ đạt được những bước dài tiến bộ. Vào tháng 10 năm 2015, PBOC đã công bố một cột mốc được mong đợi từ lâu: tự do hóa hoàn toàn lãi suất tiền gửi ngân hàng và các khoản cho vay. Các tỷ giá đó trước đây đã được đặt bởi ngân hàng trung ương với sự hướng dẫn của Hội đồng Nhà nước, cơ quan hành chánh chính của chính phủ trung ương. Hệ thống đó đã ngăn cản các ngân hàng cạnh tranh với nhau giữa người gửi tiền và người đi vay. Cho đến đầu thập niên 2010s, lãi suất cố định thấp hơn nhiều so với điều kiện thị trường, điều này có nghĩa là các hộ gia đình đang trợ cấp một cách hiệu quả cho những người đi vay nhà nước: người gửi tiền lẽ ra phải nhận được lãi suất tiết kiệm cao hơn và người đi vay đáng lẽ phải trả lãi suất cho vay cao hơn. Điều đó đã có tác dụng khuyến khích đầu tư quá mức của các doanh nghiệp nhà nước vào những ngành công nghiệp vốn đã bị ảnh hưởng bởi tình trạng dư thừa công suất và giảm tiêu dùng của các hộ gia đình.

Để giải quyết những vấn đề này, ngân hàng trung ương cho phép các ngân hàng cạnh tranh bằng cách cung cấp cho người gửi tiền lãi suất cao hơn 50% so với lãi suất chuẩn chính thức; mức trần trước đó chỉ là 10 phần trăm. Ngay sau đó, trần lãi suất huy động đã được loại bỏ hoàn toàn - về nguyên tắc. Trên thực tế, các viên chức ngân hàng lo ngại rằng các ngân hàng nhỏ sẽ tạo ra bất ổn nếu họ cạnh tranh dựa trên các lực lượng thị trường, và vì vậy họ duy trì một quy tắc không chính thức rằng lãi suất huy động không được cao hơn 50% so với lãi suất chuẩn. Những bánh xe đào tạo đó vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay: lãi suất trên danh nghĩa đã được tự do hóa, nhưng thực sự rất ít thay đổi, và các ngân hàng vẫn bị hạn chế về cách họ có thể cạnh tranh để giành được khách hàng.

Một mục tiêu khác trong chiến lược tự do hóa tài chính của ông Tập là đảm bảo việc Quỹ Tiền tệ Quốc tế công nhận đồng nhân dân tệ như một đồng tiền dự trữ xứng đáng được đưa vào giỏ tiền tệ mà IMF căn cứ vào Quyền rút vốn đặc biệt (SDRs), một đơn vị tài khoản mà các ngân hàng trung ương sử dụng để thực hiện các giao dịch. PBOC hy vọng rằng nếu đồng nhân dân tệ được qui chế đó, nó sẽ khuyến khích các ngân hàng trung ương khác mua tài sản bằng đồng nhân dân tệ, làm cho thị trường của Trung Quốc trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Tuy nhiên, rắc rối là các đồng tiền trong giỏ SDR được cho là có thể sử dụng tự do trong thương ước quốc tế và mậu dịch thường xuyên. Các biện pháp kiểm soát vốn của Trung Quốc khiến việc đáp ứng các tiêu chí đó trở nên khó khăn. Để vượt qua trở ngại đó, Bắc Kinh tuyên bố rằng trên thực tế có một thị trường thanh khoản cho đồng nhân dân tệ - ở Hồng Kông, nơi duy trì một thị trường nhân dân tệ ở nước ngoài, nơi tỷ giá tiền tệ có thể dao động nhiều hơn ở chính Trung Quốc. Vấn đề với cách giải quyết này trở nên rõ ràng khi Bắc Kinh bất ngờ giảm giá đồng nhân dân tệ vào tháng 8 năm 2015 trong nỗ lực thống nhất giá cả ở đại lục và ở Hồng Kông. Các dòng vốn chảy ra đáng báo động là kết quả, được tạo điều kiện thuận lợi bởi chính thị trường Hồng Kông mà PBOC đã và đang thúc đẩy.

IMF cuối cùng đã đồng ý thêm đồng nhân dân tệ vào giỏ SDR tháng 11 năm 2015. Tại thời điểm đó, ngân hàng trung ương Trung Quốc đã từ chối tự do hóa thị trường tiền tệ Hồng Kông, siết chặt thanh khoản và giảm vai trò của nó như một trung tâm giao dịch. Sáu năm sau, nguồn nhân dân tệ ở Hồng Kông vẫn còn nhỏ, đồng tiền này vẫn chỉ chiếm một phần hạn chế trong các giao dịch xuyên biên giới quốc tế và một tỷ lệ khiêm tốn trong dự trữ ngoại hối toàn cầu, và các biện pháp kiểm soát vốn của Trung Quốc vẫn được áp dụng.

Vào mùa hè năm 2016, Lưu Hạc và những người còn lại trong ban lãnh đạo ĐCSTQ đã chán ngấy hoạt động cho vay rủi ro dẫn đến bong bóng thị trường chứng khoán và khủng hoảng thị trường liên ngân hàng. Họ sợ rằng hệ thống tài chính của Trung Quốc bắt đầu giống hệ thống tài chính của Hoa Kỳ trước cuộc khủng hoảng dưới tiêu chuẩn (subprime crisis) 2007–8. Vì vậy, Bắc Kinh đã bắt tay vào một chiến dịch xóa nợ để thu nhỏ hệ thống ngân hàng kiểu bán hợp pháp và giảm thiểu rủi ro tài chính hệ thống. Thứ nhất, ngân hàng trung ương cố định lãi suất vay ngắn hạn cao hơn, điều này làm tăng lãi suất tổng thể nhưng không làm giảm đáng kể khối lượng tín dụng. Sau đó, Bắc Kinh đã tăng cường các quy định quản lý để ngăn chặn các ngân hàng gửi quỹ cho các tổ chức bên thứ ba để sửa đổi các quy định. Theo kế hoạch, khối lượng tín dụng mới giảm xuống, nhưng điều này có tác động điều chỉnh nền kinh tế trong suốt năm 2018, vì hóa ra những người vay từ các ngân hàng bóng tối không chỉ tham gia đầu cơ mà còn đầu tư vào phát triển bất động sản và cơ sở hạ tầng địa phương. Một lần nữa, Bắc Kinh phải rút lui, từ bỏ các nỗ lực xóa nợ tích cực và cho phép tín dụng tăng trở lại, đặc biệt là đối với các chính quyền địa phương.

Chinese stock indices in Shanghai, China, June 2015

Aly Song / TPX Images of the Day / Reuters

Mô hình phục hồi quyền kiểm soát trung ương sau những nỗ lực tự do hóa thất bại có thể đạt đến đỉnh cao là một trong những câu chuyện quan trọng nhất của Trung Quốc trong năm qua: cuộc đàn áp của Bắc Kinh đối với các công ty công nghệ tài chính. Điều này đã dẫn đến các hành động chống độc quyền chống lại những gã khổng lồ công nghệ Alibaba và Tencent và việc hoãn đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng cho Ant Group, một công ty con của Alibaba.

ĐCSTQ đã trình bày những bước này là cải cách vì người tiêu dùng, điều này có vẻ hợp lý trong một thế giới mà nhiều quốc gia khác đang tìm cách kiềm chế những gã khổng lồ công nghệ của họ. Nhưng đối với Bắc Kinh, các động thái này đánh dấu sự kết thúc của quá trình mở cửa tài chính cốt yếu. Vào đầu thập niên 2010s, các công ty này đã được các nhà kỹ trị (technocrats) của đảng tiếp tay, những người hy vọng rằng những đổi mới tài chính sẽ buộc các ngân hàng quốc doanh hợp nhất trở nên hiệu quả hơn. Điều này đã thành công, ít nhất là phù hợp và bắt đầu: các công ty mới đã làm cho hệ thống tài chính hoạt động cho những khách hàng chưa được phục vụ trước đây. Nhưng sự đổi mới cũng đi kèm với những rủi ro mới, chẳng hạn như các nền tảng cho vay ngang hàng cung cấp lãi suất cao cho người gửi tiền và thậm chí lãi suất cao hơn cho người đi vay. Khi nhiều người đi vay vỡ nợ, các nhà đầu tư đã phản đối, họ tin nhầm rằng các nền tảng này được chính phủ bảo lãnh. Vào tháng 8 năm 2018, hàng nghìn người đã có mặt ở trung tâm khu tài chính của Bắc Kinh để yêu cầu bồi thường. Một cuộc đàn áp theo quy định đối với các tổ chức cho vay ngang hàng đã bắt đầu, trong phần mở đầu cho đợt giám sát năm nay của Ant Group. Cuộc đàn áp đã thành công trong việc giảm rủi ro tài chính, nhưng nó cũng làm đảo ngược lợi ích của cải cách, vì nhiều người tiêu dùng thu nhập thấp hiện có ít lựa chọn hơn trong việc tiếp cận tín dụng.

Mô hình chính sách kinh tế vĩ mô trong thời kỳ của ông Tập là rất rõ ràng: mỗi nỗ lực cải cách đều tạo ra một cuộc khủng hoảng nhỏ đe dọa trở thành một cuộc khủng hoảng lớn hơn, khiến ĐCSTQ quay lại với những gì họ biết rõ nhất - chỉ huy và kiểm soát. Tất nhiên, đường lối chính thức là không có thất bại nào và Trung Quốc đang tiến về phía trước một cách chắc chắn với chương trình nghị sự “cải cách và mở cửa” của Đặng. Trong một bài phát biểu vào tháng 12 năm 2020, ông Tập khoe khoang đã đưa ra 2.485 kế hoạch cải cách, đạt được các mục tiêu của đảng theo đúng tiến độ. Tháng sau, tờ báo chính thức People’s Daily cũng đồng tình khi nói rằng 336 mục tiêu cải cách ưu tiên cao đã “hoàn thành về cơ bản” và ca ngợi “những bước đột phá đáng kể trong việc cải cách sâu rộng toàn diện”.

Riêng các nhà kinh tế Trung Quốc thừa nhận rằng không phải như vậy. Nhưng họ cho rằng — không phải là không có — rằng những thách thức đang gây ra cho các hệ thống kinh tế thị trường kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là lý do đủ để tiến hành một cách chậm chạp. Như Phó Chủ tịch Trung Quốc Vương Kỳ Sơn đã nói với Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ lúc bấy giờ là Henry Paulson giữa cuộc khủng hoảng đó: “Bạn là thầy của tôi, nhưng bây giờ ở đây, tôi thuộc phạm vi thầy giáo của tôi và hãy nhìn vào hệ thống của bạn, Hank. Chúng tôi không chắc mình nên học hỏi từ bạn nữa." Trong nhiệm kỳ Trump, ngay cả Hoa Kỳ - lâu nay là nước đề xướng tự do hóa kinh tế hàng đầu thế giới - dường như cũng đặt vấn đề về niềm tin thị trường tự do của mình.

Nhưng câu chuyện thực không phải là sự thành công trong cải cách của Trung Quốc hay sự chần chừ trong cải cách của họ. Ông Tập đã cố gắng nhưng phần lớn không thành công trong việc thúc đẩy chương trình nghị sự mà Đặng đưa ra vào năm 1978 và những người tiền nhiệm của ông Tập đều duy trì. Hậu quả của thất bại đó rõ ràng. Kể từ khi ông Tập nắm quyền kiểm soát, tổng nợ đã tăng từ 225% GDP lên ít nhất 276%. Trong năm 2012, phải mất sáu nhân dân tệ tín dụng mới để tạo ra một nhân dân tệ tăng trưởng; vào năm 2020, nó mất gần mười. Tăng trưởng GDP đã chậm lại từ khoảng 9,6% trong những năm trước ông Tập xuống dưới 6% trong những tháng trước khi đại dịch bùng phát. Tăng trưởng tiền lương và tăng thu nhập hộ gia đình cũng chậm lại. Và trong khi tăng trưởng năng suất - khả năng tăng trưởng mà không cần sử dụng thêm lao động hoặc tài nguyên - chiếm tới một nửa mức mở rộng kinh tế của Trung Quốc trong những năm 1990 và một phần ba trong thập kỷ tiếp theo, ngày nay ước tính chỉ đóng góp một phần trăm mức tăng trưởng sáu phần trăm của Trung Quốc, hay theo một số tính toán, chẳng là gì cả. Tất cả những điểm dữ liệu này báo hiệu sự mất năng động của nền kinh tế.

RỦI RO CAO

Tại sao điều quan trọng phải hiểu rằng Tập Cận Bình đã không chống lại cải cách mà thất bại trong cải cách? Lý do là khi nói đến triển vọng của Trung Quốc, vấn đề nhận thức rất quan trọng. Nếu các nhà đầu tư, doanh nghiệp và các chính phủ khác tin rằng ông Tập đã từ chối cải cách nhưng Trung Quốc có thể mang lại tăng trưởng mà không có điều đó, thì họ sẽ tán thành và đầu tư vào mô hình của Bắc Kinh. Nhưng nếu họ hiểu rằng ông Tập trên thực tế đã cố gắng tự do hóa nhưng lại rút lui về một nền kinh tế chỉ huy và kiểm soát năng suất thấp, thì họ sẽ do dự, nếu không rút lui và khăng khăng rằng Bắc Kinh phải làm việc chăm chỉ trong cải cách chính sách trước khi có thể có được sự tin tưởng của họ. Dựa trên niềm tin của chính ông Tập rằng nếu không có cải cách thì Trung Quốc sẽ đi vào ngõ cụt, việc tính toán dường như là không thể tránh khỏi. Câu hỏi đặt ra là khi nào nó sẽ đến và liệu Bắc Kinh có thực hiện những bước đi táo bạo mà mọi quốc gia đã thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình đã từng buộc phải thực hiện hay không. Những người hoài nghi về sự tiến bộ liên tục của Trung Quốc trước đây là sai và họ phải giải thích điều gì đã khác bây giờ để biện minh cho sự bi quan của họ. Ba yếu tố thuyết phục nhất. Thứ nhất, trong những năm gần đây, chỉ tính riêng lãi vay (không tính đến nợ gốc) đã tăng gấp đôi giá trị tăng trưởng GDP hàng năm: tình trạng này đang khiến các ngân hàng đổ vỡ, tái cơ cấu và các doanh nghiệp nhà nước vỡ nợ lớn. Thứ hai, lần đầu tiên kể từ khi xảy ra thảm họa đói khổ của Đại nhảy vọt, dân số lao động đang thu hẹp lại, dẫn đến lực lượng lao động nhỏ hơn và ít người mua bất động sản hơn trên thị trường nhà ở được cung cấp quá mức của Trung Quốc. Và thứ ba, từ năm 1978 đến khoảng năm 2015, Hoa Kỳ và các cường quốc khác trên thế giới đã bước vào chính sách can dự (engage) với Trung Quốc và giúp suôn sẻ dễ dàng con đường đến với các cơ hội toàn cầu. Điều đó không còn đúng nữa, ngay cả khi các nền dân chủ thị trường mở đã không tạo ra được sự đồng thuận về lập trường đúng đắn để đối phó với Trung Quốc trong tương lai. Theo nhiều cách, những luồng gió thuận lợi mà Trung Quốc hưởng được từ sự nhiệt tình của toàn cầu về sự trỗi dậy của họ đã trở thành những luồng gió ngược.

Nếu Bắc Kinh không thể lôi kéo các công ty tư nhân tăng cường đầu tư và không thể thuyết phục các nền kinh tế lớn tiếp tục tham gia với Trung Quốc, thì triển vọng kinh tế rõ ràng của đất nước này sẽ u ám. Các nỗ lực cải cách thời Tập Cận Bình đã tạo ra một loạt các khủng hoảng nhỏ, mỗi cuộc khủng hoảng thu hẹp không gian thử thách và sai lầm trong tương lai. Các nhà phù thủy công nghệ cao mà ĐCSTQ gần đây đã tôn vinh như những anh hùng của một tương lai kỹ thuật số mới hiện đang cố gắng chứng tỏ lòng trung thành của họ với đảng hơn là thúc ép các quan chức cho phép họ cạnh tranh và đổi mới mạnh mẽ hơn. Với mức nợ kinh doanh và hộ gia đình đã ở mức cực cao, Trung Quốc có thể gỡ bỏ có lẽ hai hoặc ba năm ổn định kinh tế bằng cách tăng thêm các khoản vay, miễn là dòng vốn toàn cầu và chuỗi cung ứng không cạn kiệt. Nếu các công ty và nhà đầu tư rút lui, hoặc nếu Trung Quốc cần tăng lãi suất mạnh hơn trong nước, thì một sự tính toán có thể xảy ra sớm hơn nhiều.

Bắc Kinh có những lựa chọn để giảm bớt quá trình chuyển đổi này, nhưng không thể tránh được. Không giống như Nhật Bản khi bong bóng tài sản nổ bùng vào năm 1991, Trung Quốc không phải là một quốc gia trưởng thành và có thu nhập cao. Thu nhập nông thôn ngày càng tăng sẽ khiến Trung Quốc mạnh lên nhưng sẽ không tạo ra các thành phố tăm tiếng hay máy móc công nghệ cao. Chiến dịch "lưu thông kép" của Tập cận Bình hình dung ra một cuộc cách mạng trong chi tiêu của người tiêu dùng. Đó cũng là một khả năng, với điều kiện Bắc Kinh chuyển từ hỗ trợ các công ty sang buộc họ phải phục vụ người tiêu dùng. Và bằng cách bán bớt các doanh nghiệp nhà nước, Trung Quốc có thể huy động hàng nghìn tỷ đô la để trả nợ, tài trợ cho chăm sóc sức khỏe và trả tiền giảm thiểu carbon, tất cả đồng thời thúc đẩy cạnh tranh tư nhân lành mạnh. Những con đường này và nhiều con đường khác để tăng trưởng bền vững đều có sẵn. Nhưng trong mỗi trường hợp, đảng nhấn mạnh rằng trong “chính phủ, quân đội, dân sự và học thuật; đông, tây, nam, bắc và trung tâm, đảng lãnh đạo tất cả ” sẽ phải chịu hy sinh — và cho đến ngày, đó đã là một cây cầu quá xa.

Tại một số thời điểm, các nhà lãnh đạo của Trung Quốc phải đối đầu với sự đánh đổi này: hiệu quả kinh tế bền vững và quyền toàn năng chính trị không đi đôi với nhau. Trong suốt lịch sử, các nhà lãnh đạo phải đối mặt với câu hỏi hóc búa này ở Trung Quốc và các nơi khác đã cố gắng che giấu năng suất giảm để câu giờ và tiếp tục tìm kiếm phương cách để có được tất cả. Và thực sự, một số thống kê gần đây đã không đúng ở Trung Quốc. Bắc Kinh sẽ chỉ ra kỷ lục của mình về chủ nghĩa ngoại lệ, nhưng nếu họ tìm ra cách để duy trì sự ổn định, kiểm soát nhà nước và năng động kinh tế cùng một lúc, thì đây sẽ là quốc gia đầu tiên trong lịch sử làm như vậy. Xét về thành tích cải cách hỗn độn trong những năm của ông Tập, sự hoài nghi dường như khẳng định.

Nếu Trung Quốc gặp phải số phận của các quốc gia có thu nhập trung bình khác không cải cách được cách thức của họ để thoát khỏi tình trạng giảm năng suất, thì bức tranh sẽ trở nên u ám. Giá tài sản bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp sẽ giảm đáng kể, gây ra sự bất bình chính trị khi mọi người chứng kiến sự giàu có của họ bốc hơi. Với sự tự tin nao núng và quá tin tưởng vào những lời hứa của chính phủ sẽ đảm bảo ổn định, đầu tư mới sẽ giảm dần, tạo việc làm sẽ chậm lại, đồng thời cơ sở thuế và thu ngân sách sẽ thu hẹp lại. Tất cả những điều này đã bắt đầu xảy ra, nhưng Bắc Kinh sẽ buộc phải đưa ra những lựa chọn khó hơn nhiều trong tương lai.

Điều đó có nghĩa là một thời kỳ thắt lưng buộc bụng đau đớn đối với Trung Quốc và cả các đối tác nước ngoài, những kẻ đã tin tưởng vào Trung Quốc như một người mua quặng sắt, một nhà cung cấp hỗ trợ phát triển, và một nhà đầu tư trực tiếp vào các công ty khởi nghiệp và nhiều doanh nghiệp khác. Điều này sẽ gây ra những hậu quả to lớn về địa chính trị, khi sự cạnh tranh giữa các cường quốc điều chỉnh lại. Bắc Kinh có thể trở nên hiếu chiến hơn để tìm kiếm các giải pháp. Ngược lại, nó có thể quay trở lại trọng tâm phát triển trong nước của những năm trước, trở lại theo lời khuyên của Đặng Tiểu Bình hạn chế sự tập trung của đảng.

Các nhà kinh tế không được trang bị đủ để dự đoán các nhà lãnh đạo sẽ đưa ra những lựa chọn chính trị lớn lao nào. Tuy nhiên, lịch sử đã chứng minh rằng mọi quốc gia thành đạt qui chế thu nhập cao đều đã trải qua những cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng. Những người chấp nhận sự cần thiết của điều chỉnh và loại bỏ ảo tưởng về hiệu quả mà không cần cải cách sẽ có tính cạnh tranh cao hơn. Trung Quốc có một di sản mạnh mẽ là chấp nhận cải cách và điều chỉnh, điều này đã góp phần tạo nên sự trỗi dậy của đất nước. Cải cách không phải là nghị trình phương Tây thúc đẩy đối với Trung Quốc: đó là sự khai sinh Trung Quốc hiện đại. Sau một thập kỷ nỗ lực không thành công để thực hiện nó, Bắc Kinh đang tìm kiếm một con đường dễ dàng hơn. Trong tất cả những con đường nào khác, Ông Tập phải tái khám phá rằng cải cách là con đường khó nhất.

• DANIEL H. ROSEN is a founding partner of Rhodium Group and leads the firm’s work on Asia.

 
 

Hồ Lạc Hồng dịch

___________________________________________
[1] China’s Economic Reckoning_The Price of Failed Reforms – Daniel H. Rosen – Foreign Affairs July/August 2021.