MƯU ĐỒ CỦA TẬP CẬN BÌNH

Cuộc Chạy Đua Củng Cố Quyền Lực và Ngăn Chặn Thảm Họa[1]


Jude Blanchette
July, August, 2021
 
 
 


Tập Cận Bình là một người đang thực thi nhiệm vụ. Sau khi lên nắm quyền vào cuối năm 2012, ông đã nhanh chóng củng cố quyền lực chính trị của mình, thanh trừng tham nhũng tràn lan trong Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), loại bỏ kẻ thù, chế ngự các tập đoàn tài chính và công nghệ cao một thời của Trung Quốc, dẹp tan bất đồng nội bộ và mạnh mẽ khẳng định sự ảnh hưởng của Trung Quốc trên trường quốc tế. Với danh nghĩa bảo vệ “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc, ông Tập đã gây chiến với nhiều nước láng giềng và các quốc gia đối đầu ở xa hơn — đặc biệt là Hoa Kỳ. Trong khi những người tiền nhiệm trực tiếp của ông tin rằng Trung Quốc phải tiếp tục trì hoãn thời gian bằng cách giám sát tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và sự mở rộng ảnh hưởng vững chắc của Trung Quốc thông qua việc hội nhập chiến thuật vào trật tự toàn cầu hiện có, thì ông Tập lại thiếu kiên nhẫn với hiện trạng, có khả năng chấp nhận rủi ro cao, và dường như cảm thấy một cảm giác cấp bách rõ rệt trong việc thách thức trật tự quốc tế.

Tại sao ông ta lại vội vàng như vậy? Hầu hết các nhà quan sát đều dựa trên một trong hai giả thuyết hoàn toàn trái ngược nhau. Ý kiến thứ nhất cho rằng ông Tập đang thúc đẩy một loạt các sáng kiến chính sách nhằm mục đích không kém gì việc thiết lập lại trật tự toàn cầu theo những điều kiện có lợi cho ĐCSTQ. Quan điểm khác đoan quyết rằng ông là người giám sát lo lắng của một hệ thống chính trị theo chủ nghĩa Lenin lỗi thời và suy tàn đang đấu tranh để giữ quyền lực. Cả hai câu chuyện đều chứa đựng các yếu tố sự thật, nhưng không giải thích thỏa đáng nguồn gốc cảm giác cấp bách của Tập Cận Bình.

Một lời giải thích chính xác hơn là những tính toán của ông Tập không được xác định bởi tham vọng hay nỗi sợ hãi mà bởi thời biểu của chính ông. Nói một cách đơn giản, ông Tập đã củng cố quá nhiều quyền lực và làm đảo lộn hiện trạng với sức mạnh như vậy bởi vì ông nhận thấy cơ hội hạn hẹp từ 10 đến 15 năm, trong đó Bắc Kinh có thể tận dụng một loạt các chuyển đổi công nghệ và địa chính trị quan trọng, điều này cũng sẽ giúp họ vượt qua những thách thức nội bộ đáng kể. Ông Tập nhận thấy sự hội tụ của những luồng gió mạnh về dân số học, sự suy giảm cơ cấu kinh tế, những tiến bộ nhanh chóng trong công nghệ kỹ thuật số và sự thay đổi cán cân quyền lực toàn cầu so với Hoa Kỳ như những gì ông gọi là “những thay đổi sâu sắc chưa từng thấy trong một thế kỷ”, đòi hỏi một tập hợp các phản hồi táo bạo ngay tức khắc.

Bằng cách thu hẹp tầm nhìn của mình trong 10 đến 15 năm tới, ông Tập đã truyền cho hệ thống chính trị Trung Quốc ý thức tập trung và quyết tâm có thể giúp Trung Quốc vượt qua những thách thức lâu dài trong nước và đạt được mức độ trung tâm toàn cầu mới. Nếu ông Tập thành công, Trung Quốc sẽ tự định vị mình như một kiến trúc sư của kỷ nguyên đa cực mới nổi, nền kinh tế của nước này sẽ thoát khỏi cái gọi là bẫy lợi tức trung bình, và năng lực công nghệ của lĩnh vực sản xuất và quân sự sẽ sánh ngang với các nước phát triển hơn.

Tuy nhiên, tham vọng và thực hiện không giống nhau, và Tập Cận Bình hiện đã đặt Trung Quốc vào một quỹ đạo đầy rủi ro, một quỹ đạo đe dọa những thành tựu mà những người tiền nhiệm của ông đã đạt được trong thời kỳ hậu Mao. Ông tin rằng ĐCSTQ phải định hướng nền kinh tế và việc Bắc Kinh kiềm chế khu vực tư nhân sẽ hạn chế tăng trưởng kinh tế trong tương lai của đất nước. Yêu cầu của ông các cán bộ đảng phải tuân theo sự chính thống về tư tưởng và thể hiện lòng trung thành cá nhân đối với ông sẽ làm suy yếu tính linh hoạt và năng lực của hệ thống quản trị. Việc ông nhấn mạnh vào một định nghĩa rộng rãi về an ninh quốc gia sẽ chỉ đạo đất nước đi theo hướng hướng nội và hoang tưởng hơn. Việc ông tháo mở chủ nghĩa dân tộc “Chiến binh sói” (Wolf Warrior) sẽ tạo ra một Trung Quốc cô lập và hiếu chiến hơn. Cuối cùng, vị trí ngày càng độc tôn của ông Tập trong hệ thống chính trị của Trung Quốc sẽ ngăn cản các lựa chọn thay đổi chính sách và điều chỉnh đường lối, một vấn đề trở nên tồi tệ hơn khi ông loại bỏ giới hạn nhiệm kỳ và viễn cảnh ông cầm quyền vô thời hạn.

Ông Tập tin rằng ông có thể tạo ra tương lai của Trung Quốc cũng như các hoàng đế trong quá khứ đã làm. Ông ta nhầm lẫn sự kiêu ngạo với sự tự tin — và không ai dám nói với ông ta điều gì khác. Một môi trường mà một nhà lãnh đạo toàn quyền với đầu óc chỉ tập trung vào một mục tiêu không thể nghe thấy những sự thật khó chịu là công thức dẫn đến thảm họa, như lịch sử Trung Quốc hiện đại đã chứng minh quá rõ ràng.

MỘT CON NGƯỜI HỐI HẢ

Nhìn lại, thời biểu nén lại của ông Tập đã rõ ràng kể từ khi ông bắt đầu nhiệm kỳ. Trung Quốc đã quen với tốc độ của người tiền nhiệm Hồ Cẩm Đào chậm chạp và nghiêm nghị, và nhiều người kỳ vọng ông Tập sẽ làm theo, mặc dù tập trung nhiều hơn vào cải cách kinh tế. Tuy nhiên, trong vòng vài tháng sau khi nắm quyền vào năm 2012, ông Tập đã bắt đầu sắp xếp lại cục diện chính trị và kinh tế trong nước. Đầu tiên là phần dọn dẹp từ trên xuống dưới ĐCSTQ. Đảng đã nhiều lần chứng tỏ khả năng chống chọi với các cơn bão trong nước, nhưng áp lực đang gia tăng trong hệ thống. Tham nhũng đã trở thành phổ biến, dẫn đến sự bất mãn của quần chúng và phá vỡ kỷ luật tổ chức. Các cấp bậc của đảng đang tăng lên nhanh chóng nhưng ngày càng đầy ắp những cá nhân không có chung niềm tin với ông Tập vào chủ nghĩa ngoại lệ của ĐCSTQ (the CCP’s exceptionalism). Các chi bộ trong doanh nghiệp nhà nước, công ty tư nhân và các tổ chức phi chính phủ hoạt động vô tổ chức. Việc ra quyết định ở cấp cao đã trở nên thiếu phối hợp và khó liên kết. Các cơ quan tuyên truyền của đảng đã phải vật lộn để trình chiếu thông điệp của họ tới một toàn thể công dân ngày càng hoài nghi và hiểu biết về công nghệ.

Ông Tập đã đồng thời giải quyết tất cả những vấn đề này. Chỉ riêng trong năm 2013, ông đã khởi xướng một chiến dịch chống tham nhũng sâu rộng, phát động một chiến dịch “hàng loạt quần chúng” nhằm loại bỏ đa nguyên chính trị và các hệ tư tưởng tự do khỏi các bài diễn thuyết của công chúng, công bố các hướng dẫn mới hạn chế sự gia tăng đảng viên và bổ sung các yêu cầu tư tưởng mới đối với đảng sẽ tạo dựng các đảng viên tương lai. Ông tin rằng tầm cỡ của đảng không quan trọng lắm nếu nó không tạo được những tín đồ chân chính. Sau cùng, ông lưu ý, khi Liên Xô trên bờ vực sụp đổ vào đầu những năm 1990, “theo tỷ lệ, Đảng Cộng sản Liên Xô có nhiều thành viên hơn [ĐCSTQ], nhưng không ai đủ sức đứng lên và chống lại”.

Tiếp theo trong chương trình nghị sự của ông Tập là nhu cầu khẳng định lợi ích của Trung Quốc trên sân khấu toàn cầu. Ông Tập nhanh chóng bắt đầu các nỗ lực cải tạo đất ở Biển Đông, thiết lập vùng nhận dạng phòng không trên lãnh thổ tranh chấp ở Biển Hoa Đông, giúp thành lập Ngân hàng Phát triển Mới (đôi khi được gọi là Ngân hàng BRICS), công bố dự án cơ sở hạ tầng quốc tế khổng lồ được gọi là Sáng kiến Vành đai và Con đường, và đề xuất Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á.

Ông Tập tiếp tục hành xử cách thức của mình trong phần còn lại của nhiệm kỳ đầu tiên và không có dấu hiệu giảm bớt khi ông gần kết thúc nhiệm kỳ thứ hai. Việc củng cố quyền lực của ông tiếp tục không bị gián đoạn: ông không phải đối mặt với các đối thủ chính trị thực sự, đã loại bỏ các giới hạn nhiệm kỳ trong nhiệm kỳ của mình, cài đặt các đồng minh và những người trung thành vào các vị trí quan trọng. Những trung tâm nghiên cứu mới dành riêng cho việc nghiên cứu các bài viết và bài phát biểu của ông, các quan chức đảng công khai khai thác trí tuệ và phẩm hạnh của ông, các quy định của đảng và tài liệu kế hoạch của chính phủ ngày càng tuyên bố dựa trên “Tư tưởng Tập Cận Bình”. Ông ta đã khẳng định sự thống trị của ĐCSTQ đối với nhiều vùng rộng lớn của xã hội và đời sống kinh tế Trung Quốc, thậm chí buộc những doanh nhân quyền lực và công nghệ có ảnh hưởng phải cầu xin sự tha thứ vì không đủ lòng trung thành với đảng. Trong khi đó, ông tiếp tục mở rộng phạm vi ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc thông qua thực thi quyền lực cứng, cưỡng ép kinh tế và hội nhập sâu rộng vào các cơ quan quốc tế và những bộ phận đa phương.

Nhiều nhà quan sát bên ngoài, bao gồm cả tôi, ban đầu tin rằng việc đảng không thể ngăn chặn sự bùng phát của COVID-19 đã nêu bật những điểm yếu về hệ thống của Trung Quốc. Tuy nhiên, vào mùa hè năm 2020, ông Tập đã có thể sử dụng các ưu điểm của quyền kiểm soát tập trung trong việc kiểm tra sự lây lan trong nước của đại dịch. Khác xa với việc làm suy yếu quyền lực chính trị của ông ta, phương pháp tiếp cận bằng quả đấm sắt của Bắc Kinh để chống lại vi rút giờ đây đã trở thành một điểm tự hào đất nước.

MỘT THỜI KHẮC DUY NHẤT

Nhịp độ nhanh chóng của ông Tập được kích thích bởi sự hội tụ của những thay đổi về địa chính trị, dân số học, kinh tế, môi trường và công nghệ. Những rủi ro mà chúng gây ra rất đáng sợ, nhưng chưa hiện hữu; Bắc Kinh có một cơ hội để giải quyết chúng trước khi chúng trở thành thảm họa. Và tiềm năng phần thưởng đền bù mà họ đưa ra là đáng kể.

Thay đổi lớn đầu tiên là đánh giá của Bắc Kinh về sức mạnh và ảnh hưởng của phương Tây đã bước vào giai đoạn suy tàn nhanh chóng và kết quả là, một kỷ nguyên đa cực mới đã bắt đầu, một kỷ nguyên mà Trung Quốc có thể định hình nhiều hơn theo ý thích của mình. Quan điểm này được giữ vững khi các cuộc chiến của Mỹ ở Afghanistan và Iraq trở thành vũng lầy, và nó càng vững chắc sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, mà giới lãnh đạo Trung Quốc coi là hồi chuông báo tử cho uy tín toàn cầu của Mỹ. Vào năm 2016, việc người Anh bỏ phiếu rời Liên minh châu Âu và việc Donald Trump được bầu làm tổng thống Hoa Kỳ đã củng cố quan điểm đồng thuận rằng Hoa Kỳ và phương Tây nói chung đang suy thoái. Điều này có thể cho thấy rằng Trung Quốc có thể lựa chọn sự kiên nhẫn chiến lược và chỉ đơn giản là cho phép sức mạnh của Mỹ suy tàn. Nhưng khả năng đổi mới ban lãnh đạo của Hoa Kỳ do sự ra đời của chính quyền Biden - và lo ngại về cái chết của ông Tập (ông sẽ 82 tuổi vào năm 2035) - có nghĩa là Bắc Kinh không muốn chờ xem giai đoạn suy tàn này của phương Tây cuối cùng sẽ kéo dài bao lâu.

Lực lượng quan trọng thứ hai đối đầu với ông Tập là triển vọng kinh tế và dân số học đang xấu đi của Trung Quốc. Vào thời điểm ông ta nhậm chức, dân số Trung Quốc đồng thời già đi và thu hẹp lại, và đất nước này đang phải đối mặt với sự gia tăng của người nghỉ hưu sắp xảy ra, điều này sẽ gây căng thẳng cho hệ thống chăm sóc sức khỏe và lương hưu tương đối yếu kém của đất nước. Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc hiện dự đoán dân số Trung Quốc sẽ đạt đỉnh vào năm 2029 và một nghiên cứu gần đây trên tạp chí The Lancet dự báo rằng dân số sẽ giảm gần 50% vào cuối thế kỷ này. Mặc dù Bắc Kinh đã chấm dứt chính sách một con hà khắc vào năm 2016, quốc gia này vẫn ghi nhận mức giảm 15% số ca sinh trong 12 tháng qua. Trong khi đó, chính phủ ước tính rằng vào năm 2033, gần một phần ba dân số sẽ trên 60 tuổi.

Góp phần gây ra những tai họa này là lực lượng lao động đang thu hẹp của Trung Quốc và mức lương gia tăng, trung bình mức lương đã tăng 10% kể từ năm 2005. Mức lương lớn hơn có lợi cho người lao động, nhưng các nhà sản xuất toàn cầu đang ngày càng chuyển việc làm ra khỏi Trung Quốc để đến các nước có chi phí thấp hơn, khiến số lượng công nhân có trình độ thấp ở Trung Quốc thất nghiệp hoặc thiếu việc làm ngày càng tăng. Và bởi vì chỉ có 12,5% lực lượng lao động của Trung Quốc tốt nghiệp đại học (so với 24% ở Hoa Kỳ), việc định vị phần lớn lực lượng lao động của đất nước để cạnh tranh cho những công việc có kỹ năng cao trong tương lai sẽ là một cuộc chiến khó khăn.

Tập Cận Bình tại Cảng Moresby, Papua New Guinea, tháng 11 năm 2018

David Gray / TPX Images of the Day / Reuters

Liên quan trực tiếp đến bức tranh dân số học đáng lo ngại này là sự suy thoái của nền kinh tế Trung Quốc. Với mức tăng trưởng GDP hàng năm đã giảm từ mức cao 14% năm 2007 xuống mức trung bình một con số như hiện nay, nhiều vấn đề lâu nay Bắc Kinh có thể giải quyết, giờ đây đòi hỏi sự chú ý và sẵn sàng chấp nhận nỗi đau kinh tế và chính trị, từ việc tháo gở biển lớn nợ nần của các công ty đến việc yêu cầu các xí nghiệp và cá nhân phải nộp nhiều hơn vào kho thuế đất nước. Trung tâm vấn đề tăng trưởng của Trung Quốc là vấn đề giảm sút năng suất. Trong suốt vài thập kỷ đầu tiên của thời kỳ cải cách sau Mao, việc nhận ra mức tăng năng suất là tương đối dễ dàng, vì nền kinh tế kế hoạch bị giải thể theo hướng có lợi cho các lực lượng thị trường và hàng loạt công dân tự nguyện rời khỏi nông thôn để đến các khu vực thành thị và ven biển với hứa hẹn sẽ có lợi nhuận cao hơn- làm công ăn lương. Sau đó, khi các công ty nước ngoài đầu tư, công nghệ và hiểu biết thực tiễn đến với đất nước, hiệu quả công nghiệp tiếp tục được cải thiện. Cuối cùng, số tiền khổng lồ chi cho cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đường bộ và đường sắt, đã thúc đẩy kết nối và hiệu năng sản suất. Tất cả những điều này đã giúp một nền kinh tế nghèo và chủ yếu là nông nghiệp nhanh chóng bắt kịp với các nền kinh tế tiên tiến hơn.

Tuy nhiên, vào thời điểm ông Tập nắm quyền, các nhà hoạch định chính sách ngày càng khó duy trì đà phát triển mà không tạo ra mức nợ không bền vững, giống như cách họ đã làm để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Hơn nữa, đất nước này đã bão hòa với cơ sở hạ tầng giao thông, vì vậy, thêm một dặm đường bộ hoặc đường sắt cao tốc sẽ không đóng góp nhiều vào tăng trưởng. Và bởi vì hầu hết tất cả những người lao động có năng lực đều đã chuyển từ nông thôn ra thành thị, nên việc di chuyển lao động cũng sẽ không làm giảm năng suất lao động. Cuối cùng, chi phí xã hội và môi trường của mô hình tăng trưởng trước đây của Trung Quốc đã trở nên vừa không bền vững vừa gây mất ổn định, vì ô nhiễm không khí và sự tàn phá môi trường đáng kinh ngạc đã gây ra sự tức giận cao độ trong công dân Trung Quốc.

Có lẽ những thay đổi hậu quả nhất xảy ra trên đồng hồ của Tập Cận Bình là những tiến bộ trong công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, người máy và kỹ thuật y sinh, cùng những tiến bộ khác. Ông Tập tin rằng việc chiếm lĩnh “tầm cao chỉ huy” của những công cụ mới này sẽ đóng một vai trò quan trọng đối với số phận kinh tế, quân sự và địa chính trị của Trung Quốc, và ông đã vận động đảng để biến đất nước thành một cường quốc công nghệ cao. Điều này bao gồm việc chi những khoản tiền khổng lồ để phát triển R & D của quốc gia và khả năng sản xuất trong các công nghệ được coi là quan trọng đối với an ninh quốc gia, từ chất bán dẫn đến pin. Như ông Tập đã tuyên bố vào năm 2014, lợi thế của người đi đầu sẽ thuộc về “bất kỳ ai nắm giữ mũi nhọn của sự đổi mới khoa học và công nghệ”.

Tập Cận Bình cũng hy vọng rằng các công nghệ mới có thể giúp ĐCSTQ vượt qua, hoặc ít nhất là phá vỡ gần như tất cả các thách thức trong nước của Trung Quốc. Ông tin rằng những tác động tiêu cực của lực lượng lao động ngày càng thu hẹp có thể bị giảm bớt bởi sự thúc đẩy mạnh mẽ đối với tự động hóa và mất việc làm trong các ngành truyền thống có thể được bù đắp bằng cơ hội trong các lĩnh vực công nghệ cao, mới hơn. “Liệu chúng ta có thể cứng rắn trở lại trên trường quốc tế và vượt qua‘ bẫy thu nhập trung bình ’hay không phụ thuộc phần lớn vào việc nâng cao năng lực đổi mới khoa học và công nghệ”, ông Tập nói vào năm 2014.

Các công nghệ mới cũng phục vụ các mục đích khác. Những công cụ nhận dạng khuôn mặt và trí tuệ nhân tạo mang đến cho các cơ quan an ninh nội bộ của Trung Quốc các cách thức mới giám sát công dân và trấn áp những người bất đồng chính kiến. Chiến lược "kết hợp quân sự-dân sự" của đảng cố gắng khai thác những công nghệ mới này để tăng cường đáng kể khả năng chiến đấu của quân đội Trung Quốc. Và những tiến bộ trong công nghệ xanh mang lại triển vọng đồng thời theo đuổi tăng trưởng kinh tế và giảm thiểu ô nhiễm, một cách tổng quát hai mục tiêu mà Bắc Kinh thường coi là đang căng thẳng.

ĐIỀU HOANG TƯỞNG TRONG CHÍNH TRỊ TRUNG QUỐC

Sự hội tụ của những thay đổi và phát triển này sẽ xảy ra bất kể ai nắm quyền ở Trung Quốc vào năm 2012. Có lẽ một nhà lãnh đạo khác sẽ thực hiện một chương trình nghị sự táo bạo tương tự. Tuy nhiên, trong số các nhân vật chính trị đương thời của Trung Quốc, Tập Cận Bình đã chứng tỏ kỹ năng vô địch trong cuộc đấu đá nội bộ quan liêu. Và ông ta tin tưởng rằng mình là một nhân vật có ý nghĩa lịch sử, người mà số phận của ĐCSTQ sẽ an ổn sống còn.

Để thúc đẩy sự thay đổi đáng kể, Tập Cận Bình đã giám sát việc xây dựng một trật tự chính trị mới, một trật tự được củng cố bởi sự gia tăng mạnh mẽ quyền lực và thẩm quyền của ĐCSTQ. Tuy nhiên, ngoài sự nâng cao quyền lực của đảng, có lẽ di sản quan trọng nhất của ông Tập sẽ là sự tái định nghĩa sâu rộng về an ninh quốc gia của ông. Sự ủng hộ của ông về “khái niệm an ninh quốc gia toàn diện” xuất hiện vào đầu năm 2014 và trong một bài phát biểu vào tháng 4, ông tuyên bố rằng Trung Quốc phải đối mặt với “những yếu tố bên trong và bên ngoài phức tạp nhất trong lịch sử”. Mặc dù điều này rõ ràng là cường điệu - chiến tranh với Hoa Kỳ ở Hàn Quốc và nạn đói trên toàn quốc vào cuối những năm 1950 phức tạp hơn - thông điệp của Tập Cận Bình đối với hệ thống chính trị rất rõ ràng: một kỷ nguyên mới đầy rủi ro và không chắc chắn mà đảng đối đầu.

Kinh nghiệm lâu năm của ĐCSTQ về việc đào ngũ, âm mưu đảo chính và lật đổ bởi các tác nhân bên ngoài dẫn đến chứng hoang tưởng cấp tính, một điều đã lên đến đỉnh điểm vào thời Mao. Tập Cận Bình có nguy cơ thể chế hóa kiểu hoang tưởng này. Một kết quả của việc làm mờ ranh giới giữa an ninh bên trong và bên ngoài là lạm phát đe dọa: các cán bộ đảng ở các khu vực ít tội phạm, ít rủi ro hiện đưa ra cảnh báo về khủng bố, “các cuộc cách mạng màu” và “sự xâm nhập của Cơ đốc giáo”. Ở Tân Cương, những lo ngại về chủ nghĩa ly khai đã được sử dụng để biện minh cho việc biến toàn bộ khu vực thành một nhà tù công nghệ cao man dã. Và ở Hồng Kông, ông Tập đã thành lập một bộ máy quan liêu “an ninh quốc gia” có thể phớt lờ luật pháp địa phương và hoạt động trong bí mật hoàn toàn vì nó loại bỏ các mối đe dọa được nhận thấy đối với sự cai trị sắt đá của Bắc Kinh. Ở cả hai nơi, ông Tập đã chứng tỏ rằng ông sẵn sàng chấp nhận sự phản đối của quốc tế khi ông cảm thấy rằng lợi ích cốt lõi của đảng đang bị đe dọa.

Ở quê nhà, Tập Cận Bình khơi dậy tình cảm dân tộc chủ nghĩa bằng cách cho rằng Trung Quốc bị bao vây và vây hãm bởi kẻ thù, khai thác một cái nhìn sâu sắc về quá khứ (và rất méo mó), và lãng mạn hóa các trận chiến của Trung Quốc chống lại người Nhật trong Thế chiến thứ hai và “chiến thắng” của nước này trước Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Bằng cách cảnh báo rằng Trung Quốc đã bước vào một thời kỳ có nhiều rủi ro từ “các thế lực thù địch nước ngoài”, ông Tập đang cố gắng giúp người dân Trung Quốc chấp nhận được ý tưởng về những thời điểm khó khăn hơn phía trước và đảm bảo rằng đảng và bản thân ông được coi là lực lượng ổn định.

Trong khi đó, để khai thác cơ hội nhận thức được trong thời gian Mỹ rút lui khỏi các vấn đề toàn cầu, Bắc Kinh đã tiến công mạnh mẽ trên nhiều mặt trận chính sách đối ngoại. Chúng bao gồm việc sử dụng các chiến thuật "vùng xám", chẳng hạn như sử dụng tàu đánh cá thương mại để khẳng định lợi ích lãnh thổ ở Biển Đông và thiết lập căn cứ quân sự ở nước ngoài đầu tiên của Trung Quốc, ở Djibouti. Thị trường nội địa rộng lớn của Trung Quốc đã cho phép ông Tập đe dọa các quốc gia không thể hiện sự tuân theo chính trị và ngoại giao, bằng chứng là chiến dịch cưỡng bức kinh tế gần đây của Bắc Kinh đối với Australia để đáp lại lời kêu gọi của Canberra về một cuộc điều tra độc lập về nguồn gốc của vi rút gây ra COVID- 19. Tương tự, ông Tập đã khuyến khích các nhà ngoại giao “Chiến binh sói” của Trung Quốc đe dọa và quấy rối các nước chủ nhà chỉ trích hoặc chống đối Trung Quốc. Đầu năm nay, Bắc Kinh đã áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với Jo Smith Finley, một nhà nhân chủng học và nhà khoa học chính trị người Anh nghiên cứu về Tân Cương, và Viện Nghiên cứu Trung Quốc Mercator, một tổ chức tư vấn của Đức, những người mà công việc của họ khiến ĐCSTQ tuyên bố đã “gây tổn hại nghiêm trọng [đến] lợi ích và chủ quyền của Trung Quốc. ”

Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình đã thể hiện sự kiên nhẫn chiến lược trong việc khẳng định lợi ích của Trung Quốc trên trường toàn cầu. Thật vậy, Mao đã nói với Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon rằng Trung Quốc có thể đợi 100 năm để giành lại Đài Loan, và Đặng đã thương lượng việc trả lại Hồng Kông theo lời hứa (kể từ khi bị ông Tập phá vỡ) về thời kỳ tự trị địa phương kéo dài 50 năm. Cả hai nhà lãnh đạo đều có ý thức sâu sắc về sự mong manh tương đối của Trung Quốc và tầm quan trọng của thái độ cẩn trọng, sắc thái. Ông Tập không chia sẻ sự bình tĩnh của họ, hoặc sự tin tưởng của họ vào các giải pháp dài hạn.

Điều đó đã làm dấy lên lo ngại rằng Tập Cận Bình sẽ cố gắng thực hiện một trò chơi cực kỳ mạo hiểm để chiếm Đài Loan bằng vũ lực vào năm 2027, kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Quân đội Giải phóng Nhân dân. Tuy nhiên, dường như ông ta có thể gây khả năng một cuộc xung đột quân sự với Hoa Kỳ chỉ cách bờ biển Trung Quốc 110 dặm. Giả sử PLA đã thành công trong việc vượt qua hàng phòng thủ của Đài Loan, không nói gì đến việc vượt qua khả năng can dự của Hoa Kỳ, thì ông Tập sẽ phải thực hiện một cuộc chiếm đóng quân sự chống lại sự kháng cự bền vững trong một khoảng thời gian không xác định. Một nỗ lực tiếp quản Đài Loan sẽ làm suy yếu gần như tất cả các tham vọng toàn cầu và trong nước khác của ông Tập. Tuy nhiên, mặc dù các kịch bản cực đoan hơn có thể vẫn chưa xảy ra trong thời điểm hiện tại, nhưng Tập Cận Bình sẽ tiếp tục để Trung Quốc phô trương sức mạnh trong khu vực lân cận và đẩy mạnh ra bên ngoài để theo đuổi lợi ích của mình. Về nhiều vấn đề, ông ấy dường như muốn giải pháp chung cuộc trên đồng hồ của mình.

CON NGƯỜI CỦA HỆ THỐNG

Xu hướng của Tập Cận Bình tin rằng ông có thể định hình đường đi chính xác của quỹ đạo Trung Quốc khiến nhà kinh tế học Adam Smith mô tả về “con người của hệ thống”: một nhà lãnh đạo “say mê với vẻ đẹp được cho là của kế hoạch chính phủ lý tưởng riêng mình, đến nỗi ông ta không thể chịu đựng được độ lệch nhỏ nhất so với bất kỳ phần nào của nó.” Để thực hiện các mục tiêu ngắn hạn của mình, ông Tập đã từ bỏ bàn tay vô hình của thị trường và xây dựng một hệ thống kinh tế dựa vào các chủ thể nhà nước để đạt được các mục tiêu đã định trước.

Điều quan trọng đối với sự thay đổi này là sự phụ thuộc của Tập Cận Bình vào chính sách công nghiệp, một công cụ của quy chế kinh tế đã không còn được ưa chuộng cho đến gần cuối nhiệm kỳ của người tiền nhiệm của ông, Hồ Cẩm Đào, khi nó bắt đầu định hình cách tiếp cận của Bắc Kinh đối với đổi mới công nghệ. Năm 2015 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, với sự ra đời của các chương trình chính sách công nghiệp thay thế nhằm mục đích không chỉ thúc đẩy một công nghệ hoặc ngành công nghiệp nhất định mà còn tái tạo lại toàn bộ cấu trúc của nền kinh tế. Những điều này bao gồm kế hoạch Made in China 2025, nhằm nâng cấp năng lực sản xuất của Trung Quốc trong một số lĩnh vực quan trọng; chiến lược Internet Plus, một kế hoạch tích hợp công nghệ thông tin vào các ngành công nghiệp truyền thống hơn; và Kế hoạch 5 năm lần thứ 14, vạch ra một chương trình nghị sự đầy tham vọng nhằm giảm sự phụ thuộc của Trung Quốc đối với đầu vào công nghệ nước ngoài. Thông qua các chính sách như vậy, Bắc Kinh chuyển hàng chục nghìn tỷ nhân dân tệ vào các công ty, công nghệ và lĩnh vực mà họ coi là quan trọng về mặt chiến lược. Nó thực hiện điều này bằng cách trợ cấp trực tiếp, giảm thuế và “quỹ hướng dẫn của chính phủ” gần như thị trường, giống như các công ty đầu tư mạo hiểm do nhà nước kiểm soát.

Cho đến nay, thành tích của Bắc Kinh trong lĩnh vực này hoàn toàn bị trộn lẫn: trong nhiều trường hợp, những khoản đầu tư khổng lồ đã tạo ra lợi nhuận ít ỏi. Nhưng như nhà kinh tế học Barry Naughton đã cảnh báo, “Các chính sách công nghiệp của Trung Quốc quá lớn và quá mới, nên chúng tôi chưa có đủ tư cách để đánh giá chúng. Họ có thể thành công, nhưng cũng có thể thành thảm họa ”.

Liên quan đến chính sách công nghiệp này là cách tiếp cận của Tập Cận Bình đối với các công ty thuộc khu vực tư nhân của Trung Quốc, bao gồm nhiều công ty khổng lồ về công nghệ và tài chính mà chỉ vài năm trước đây các nhà quan sát coi là tác nhân có thể gây ra thay đổi chính trị và xã hội. Đổi mới công nghệ giúp các công ty như Ant Group và Tencent kiểm soát được các luồng dữ liệu mới và công nghệ tài chính quan trọng. Ông Tập rõ ràng nhận thấy đây là một mối đe dọa không thể chấp nhận được, thể hiện qua việc ĐCSTQ gần đây đã tăng đột biến đợt chào bán công khai lần đầu của Ant Group sau những bình luận của người sáng lập Jack Ma, mà nhiều người coi là chỉ trích đảng.

Tập Cận Bình sẵn sàng từ bỏ việc nâng cao uy tín tài chính quốc tế của Trung Quốc để bảo vệ lợi ích của đảng và gửi tín hiệu đến giới ưu tú kinh doanh: đảng trước tiên. Tuy nhiên, đây không phải là câu chuyện của David và Goliath. Nó giống như mối hiềm khích gia đình hơn, do mối liên hệ chặt chẽ và lâu dài giữa các công ty tư nhân trên danh nghĩa của Trung Quốc và hệ thống chính trị của nó. Thật vậy, gần như tất cả các doanh nhân thành công nhất của Trung Quốc đều là thành viên của ĐCSTQ và đối với nhiều công ty, sự thành công phụ thuộc vào sự ưu đãi của đảng, bao gồm cả sự bảo vệ khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài. Nhưng trong khi các nhà lãnh đạo trước đây của Trung Quốc đã trợ cấp rộng rãi cho khu vực tư nhân, ông Tập đã buộc phải vạch ra một đường ranh giới. Làm như vậy đã hạn chế hơn nữa khả năng đổi mới của quốc gia. Bất kể các nhà quản lý và nhà đầu tư nhà nước của Bắc Kinh có tinh vi đến đâu, sự đổi mới bền vững và tăng năng suất không thể xảy ra nếu không có một khu vực tư nhân sôi động.

CHIẾN LƯỢC LỚN HAY BI KỊCH LỚN?

Để nắm bắt những lợi thế tạm thời và ngăn chặn những thách thức trong nước, Tập Cận Bình đã định vị mình cho một cuộc chạy đua kéo dài 15 năm, một cuộc đua mà ông đã huy động những khả năng tuyệt vời của một hệ thống mà hiện ông chỉ huy không bị thách thức. Khung thời gian bị cắt ngắn của ông Tập mang lại cảm giác cấp bách sẽ xác định chương trình nghị sự chính sách, khả năng chấp nhận rủi ro và sẵn sàng thỏa hiệp của Bắc Kinh khi nước này đang tiến về phía trước. Điều này sẽ thu hẹp các lựa chọn có sẵn cho các quốc gia hy vọng có thể định hình hành vi của Trung Quốc hoặc hy vọng rằng thái độ "Chiến binh sói" sẽ tự nhiên thoái lui.

Hoa Kỳ có thể bác bỏ quan điểm của Bắc Kinh rằng nền dân chủ của họ đã suy yếu và ngôi sao của Washington đang mờ nhạt bằng cách tăng cường khả năng phục hồi của xã hội Hoa Kỳ và nâng cao năng lực của chính phủ Hoa Kỳ. Nếu Hoa Kỳ và các đồng minh đầu tư vào đổi mới và nguồn nhân lực, họ có thể cản trở những nỗ lực của Tập Cận Bình nhằm đạt được lợi thế đi đầu trong các công nghệ quan trọng và mới nổi. Tương tự như vậy, vai trò tích cực hơn và hướng tới tương lai của Hoa Kỳ trong việc định hình trật tự toàn cầu sẽ hạn chế khả năng của Bắc Kinh trong việc truyền bá những ý tưởng phi đạo đức ra ngoài biên giới của Trung Quốc.

Vô tình, Tập Cận Bình đã đặt Trung Quốc vào cuộc cạnh tranh với chính mình, trong một cuộc chạy đua để xác định xem liệu nhiều điểm mạnh của nước này có thể vượt xa những bệnh lý mà chính ông đã đưa vào hệ thống hay không. Vào thời điểm ông nắm quyền, ĐCSTQ đã thiết lập một quy trình khá dễ đoán để chuyển giao quyền lực một cách thường xuyên và hòa bình. Vào mùa thu tới, Đại hội Đảng lần thứ 20 sẽ được tổ chức, và thông thường, một nhà lãnh đạo từng nắm quyền như ông Tập sẽ từ bỏ sang một bên. Tuy nhiên, cho đến nay, không có kỳ vọng rằng ông Tập sẽ làm như vậy. Đây là một động thái cực kỳ mạo hiểm, không chỉ đối với bản thân ĐCSTQ mà còn đối với tương lai của Trung Quốc. Không có người kế vị trong tầm mắt, nếu Tập Cận Bình đột ngột qua đời trong thập kỷ tới, đất nước có thể rơi vào hỗn loạn.

Ngay cả khi giả định rằng ông Tập vẫn khỏe mạnh khi nắm quyền, thì nhiệm kỳ của ông ấy càng kéo dài, ĐCSTQ sẽ càng giống với sự sùng bái cá nhân, như dưới thời Mao. Các yếu tố của điều này đã quá rõ ràng, với đám người xu nịnh có thể nhìn thấy giữa các tầng lớp chính trị của Trung Quốc hiện là chuẩn mực. Những ý nghĩa về sự vĩ đại của “Tư tưởng Tập Cận Bình” có thể khiến người ngoài chỉ tò mò hoặc thậm chí hài hước, nhưng chúng thực sự có ảnh hưởng độc hại nghiêm trọng đến chất lượng thực hiện quyết định và luồng thông tin trong đảng.

Thật là mỉa mai và bi thảm, nếu Tập Cận Bình, một nhà lãnh đạo với sứ mệnh cứu đảng và đất nước, thay vào đó lại khiến hiểm nghèo cho cả hai. Đường lối hiện tại của ông có nguy cơ làm mất tác dụng những tiến bộ lớn mà Trung Quốc đã đạt được trong bốn thập kỷ qua. Cuối cùng, Tập Cận Bình có thể đúng là thập kỷ tới sẽ quyết định thành công lâu dài của Trung Quốc. Điều mà ông ta có thể không hiểu là chính bản thân mình có thể là trở ngại lớn nhất.

JUDE BLANCHETTE is Freeman Chair in China Studies at the Center for Strategic and International Studies.

 
 

Hồ Lạc Hồng dịch

___________________________________________
[1] Xi's Gamble - The Race to Consolidate Power and Stave Off Disaster_Jude Blanchette - Foreign Affairs July/August, 2021