Ở ĐÂY CŨNG CÓ CON NGƯỜI

*tặng ĐHH

 
 
 

Hiếu chuyển về trại cải tạo Z30D Hàm tân tỉnh Thuận Hải đúng vào ngày 23 tháng 4 năm 1981, vào lúc 8 giờ sáng. Ba ngày ba đêm bị còng tay trên xe lửa không ngủ khiến Hiếu trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê tuy vẫn nghe bên tai tiếng gọi tên mình trên danh sách trích ngang của cán bộ trực trại. Hiếu là toán thứ ba vào nhà 15 chiếm vị trí cuối nhà và cũng là đội 23 của nhà. Căn nhà giam xây gạch, tường quét vôi trắng ngà, mái tôn fibro, và trong phòng nền đúc xi măng cho tầng dưới cao năm tấc. Sàn giường trên bằng ván gỗ trơn láng lọt thỏm trong khuôn sắt, không thấy dấu vết của rệp như những căn phòng vách đất sàn tre miền Bắc làm nhẹ nhõm phần nào những người tù cải tạo trên sáu năm này.

Phòng vệ sinh ngăn cách bởi bức tường gạch xây dày ba tấc thông bằng một ô cửa nhưng không hề có khuôn cửa. Có năm cầu tiêu giội nước, phía trước dãy cầu tiêu là một bể nước to cao hơn đầu người một sải tay đầy ắp, có thể làm một người không biết bơi chết đuối nếu vô tình rớt vào. Mỗi sáng lúc 5 giờ nước bơm vào bể qua hai đường ống nhôm bằng cổ tay từ trạm bơm điện của đập nước suối phía ngoài trại. Quả là một môi trường tù tội xa xỉ! Hiếu thầm nghĩ như thế sau khi tự động so sánh những lán trại mà trong hơn bảy năm anh đã trải qua. Rửa mặt làm vệ sinh xong, Hiếu quay về chỗ ngủ rộng hơn chiếc chiếu trơn láng xi măng của mình. Anh trải chiếu và thấy ông già Sửu bên cạnh mình đã ngủ ngon lành từ lúc nào. Lúc này là chín giờ ba mươi sáng, khúc bánh mì khô cứng vừa mới phát một giờ trước lúc vào trại nằm trên đầu giường tuy ngon lành, so với củ khoai lang luộc đêm rồi vẫn không hấp dẫn Hiếu. Mắt anh trĩu nặng, nằm ngửa nhìn lên tầng trên, ai đó đang ngáy và dường như rất nhiều người đang ngủ! Hiếu cố mở mắt nhìn chung quanh, “ở đây vẫn có con người” là chuyện đương nhiên. Rồi hết sức tự nhiên Hiếu chìm vào giấc ngủ như kẻ bộ hành trong buổi trưa hè nóng nực rơi xuống một hồ nước ngọt trong xanh mát mẻ.

Ngày hôm nay trại cải tạo hay trại giam không ý nghĩa gì đối với những kẻ thua cuộc trải qua hơn sáu năm trong các trại từ nam chí bắc như Hiếu. Anh vẫn xem mỗi lần chuyển trại là một màn mới của vở kịch dài cuộc đời. Có rất nhiều màn kịch mà nội dung lẫn hình thức khác biệt nhau. Hiện tại anh đang trong một màn kịch bề ngoài nhìn tương đối an ổn, may ra có cả khoái lạc. Anh hoang tưởng như thế vì “Ở đây không những có con người mà còn đầy rẫy người tù như anh.” Trên chuyến xe chở về trại sáng sớm, Hiếu còn thấy những cô gái, những người đàn bà làm việc khắp nơi chung quanh trại giam này. Về Nam ý niệm một quê nhà hiện rõ nét, còn có cả một quê hương mơ hồ bềnh bồng trong ý nghĩ của anh mà trước đó trên vùng đất xã hội chủ nghĩa kia, trí não anh lại không bao giờ cho thấy sự ăn khớp giữa thực tại và suy nghĩ trong đầu của mình. Ngày trước, anh còn lo lắng e dè mỗi một khi sự suy nghĩ đi quá xa thực tế, nhưng những năm tháng tù tội kéo dài bất tận khiến anh không thèm cảnh giác. Hiếu cho rằng đến ngày hôm nay, nếu có một hậu quả từ sự phóng tâm thì anh chỉ thắng và huề chứ không thua nữa. Vì cuộc đời anh không phải đã thua trắng tay bảy năm trước rồi sao?

Hiếu nhớ lại những nơi không có bóng dáng con người như trong chuyện cổ tích mà mẹ anh đã kể khi anh còn bé. Mẹ nói “Không có con người nhưng còn có ma quỉ. Chúng ta thấy con người nhưng không thể thấy ma quỉ. Chúng ẩn nấp, vô hình có thể ở sát bên cạnh mà chúng ta không hề hay biết. Bởi thế nó rình rập, đe dọa và ngay cả ăn thịt chúng ta nữa!” Mẹ anh đã kể như thế trong những đêm tối tháng mười miền Trung, bên ngoài trời đen kịt, mưa rả rích lạnh lẽo nhưng lúc bấy giờ trong vòng tay mẹ, anh được mẹ cho biết lũ ma quỉ nó thâm độc nguy hiểm như thế nào! Tuy nhiên nó chỉ nguy hiểm khi con người một mình hoặc quá ít ỏi, còn đông người nó bớt nguy hiểm rất nhiều. Từ đó Hiếu ám ảnh khôn nguôi nổi sợ hãi mình bị vứt vào một nơi không người. Có nghĩa ma quỉ rất nhiều chung quanh anh. Dù anh có quan niệm cuộc đời như thế nào đi nữa thì anh cũng có lúc phải đối diện với lũ ma quỉ vô hình chung quanh.

Ngày đầu tiên đến trại LG. Hiếu cùng đám chiến hữu bại trận trơ vơ ngơ ngác trên một mảnh rừng đầy cây cối. Anh phải chặt cây dọn đất để có một chỗ nằm ban đêm và một mảnh đất sạch sẽ có thể trồng trọt tự nuôi sống mình vào ban ngày. Điều này tự nhiên và hợp lý từ những người chiến thắng kêu gọi tập họp những kẻ chiến bại tập trung vào một nơi gọi là trại cải tạo sau ngày 30 tháng tư năm 1975. “Ở đây lao động các anh dần dần trở lại con người tốt như chúng tôi bây giờ. Đạt được kết quả ấy các anh sẽ được trở về đoàn tụ với gia đình.” Lúc bấy giờ theo cách nói của đám cán bộ chính trị, bọn anh là những người xấu, một mặt nào đó không phải con người, mà là thứ gì đó ghê gớm hơn đội lốt người và những người cộng sản sẽ từng bước giúp trả về con người thật. Phương cách đầu tiên để làm được việc đó là lao động và song song với lao động là học tập chính trị để cải tạo tư tưởng.

Nhiều đêm Hiếu suy nghĩ, anh giống như một khối vật chất dơ bẩn từ trong ra ngoài và chính cán bộ cộng sản đang tìm cách làm sạch bằng nhiều cách. Anh nhớ đến “tẩy não” và thầm so sánh, có lẽ họ nói không sai, “mình cần phải tẩy não!” nhưng không biết có được như ý họ hay không và phải mất thời gian bao lâu mới sạch sẽ được cái đầu vốn dơ bẩn của mình?

Hiếu hỏi Bảo, một đại úy chiến tranh chính trị quân đoàn ba, “Bao lâu mới trở thành con người mới đây ông?” Bảo bi quan lắc đầu, “Tôi sợ phải lâu lắm… lâu đến độ không về được với vợ con!” vừa nói Bảo vừa nhìn lên trời xanh cao thăm thẳm buổi trưa như đo lường so sánh. Hiếu thấy thế cười to khiến Bảo hỏi, “Anh không sợ hay sao mà cười?”, “Tôi không sợ!” Hiếu tỉnh bơ nói. Bảo lại hỏi, “thế cái gì làm anh sợ?” Hiếu trả lời, “Tôi chỉ sợ ở đây không có con người mà thôi!” Bảo nghe xong trầm ngâm không nói gì thì Hiếu nói thêm, “Nhưng tôi thấy ở đây có rất nhiều người, nhiều anh em!” Nói xong Hiếu trở về chỗ nằm trong khi Bảo nhìn theo như thắc mắc.

Tháng đầu tiên mỗi ngày đều có xe molotova chở từng thùng phuy cháo và khoai đến phát đủ ba bữa cho những cải tạo viên. Hiếu bưng bát cháo buổi sáng loãng đục như nước vôi húp vội. Hôm nay cháo vừa miệng ăn chẳng bù với hôm qua mặn chát như bát nước muối và Trình, cựu trung úy biệt động quân trong tổ của Hiếu không ăn mà đổ nước cháo vào bi đông. Hiếu tò mò hỏi, Trình bảo, “Để dành ngày mai súc miệng!” Ai ai cũng đói vì khẩu phần buổi trưa và chiều chỉ hai vá cơm nhão như cháo đặc ăn với muỗng canh cá mặn. Vì phải lao động nặng nhọc nên mọi người ai cũng lo kiếm thêm thức ăn trong rừng như rau, quả hoặc bẫy thú nhưng rất hạn chế vì không được đi xa, và đám lính gác lúc nào cũng lăm lăm súng một bên vừa la hét kêu gọi chấp hành nội qui trại.

Chỉ trong nửa tháng lán trại hình thành dần dần. Trại LG chứa bốn trăm trại viên trong bốn lán mái tranh vách tre đan và một nhà bếp nằm ngang trên đầu, đa phần là sĩ quan quân đội chế độ cũ với cấp bậc cao nhất đại úy. Tháng đầu tiên có ba người bệnh nặng phải chở đi cấp cứu không biết sống chết ra sao. Số còn lại cắm cúi làm việc như để sớm được sạch sẽ con người như cán bộ chính trị giảng giải từ hôm đầu tiên. Xen kẽ lao động, một vài buổi học tập chính trị. Hiếu ngồi lắng tai nghe, có những chi tiết liên hệ đến triết học làm anh giật mình. Lúc ấy anh chợt nhớ đến bạn bè cùng học những chứng chỉ triết học tây phương tại đại học văn khoa. Dù đó là những điểm sáng le lói như đom đóm, nhưng anh thấy lại những khuôn mặt mơ hồ của Phác, Cung, Định những hôm uống rượu đế ăn cháo thùng đạn đại liên của thượng sĩ Bảy tại Quang Trung. Những người bạn học thời kỳ quân sự học đường mười hai năm trước. Triết học duy vật do cán bộ ở trại cải tạo giảng dễ hiểu hơn trên bục giảng trường đại học. Hiếu cảm giác mọi thứ hiểu biết từ kinh nghiệm cô đọng lại giản dị dần dần theo thời gian cải tạo. Tâm hồn anh cũng dường như co lại như chiếc bao tử mỗi ngày thường không chứa quá sáu củ khoai lang; và buổi tối nằm trong mùng Hiếu hay nghe bụng mình réo gọi.

Nằm bên cạnh Hiếu bấy giờ là Thái, một trung úy địa phương quân gốc người Bắc di cư. Đêm ấy đói quá không ngủ được Hiếu nằm im lắng tai nghe Thái đọc kinh trước khi ngủ. Mọi đêm khi nghe tiếng rì rầm trong mùng của Thái, Hiếu liền thiếp ngủ ngay nhưng hôm nay, trằn trọc vì bao tử sôi réo anh mới lắng nghe và khám phá ra không phải Thái đọc kinh mà là đọc thơ. Rõ là một bài thơ, nhưng khi chấm dứt bài Hiếu lại nghe tiếng “Amen” Thái đọc rõ ràng và dõng dạc. Hình như Thái cho mọi người nghĩ rằng anh ta vừa chấm dứt bài kinh tối. Ban đầu Hiếu ngạc nhiên, nhưng dần dần chính bài thơ giúp anh dễ ngủ. Sau tiếng Amen, Hiếu chìm vào giấc ngủ và sáng hôm sau lại dường như cảm thấy tinh thần sảng khoái minh mẫn hơn. Từ đó mỗi đêm bài thơ mà Hiếu tạm đặt tên là “Ở Đây”(1) từng chữ, từng câu:

Ở đây cũng có con người
Nhưng chẳng còn gì để sống
Anh phải sống chỉ bằng muối loãng
Pha vào cơm đầy những sắn khoai
Mai về sau em có kể cho ai
Em hãy kể như những chuyện dài đổ máu
Em sẽ sinh ra giống nòi con cháu
Nhớ kể cho con chủ nghĩa hãi hùng
Cha anh hôm nay đang sống tận cùng
Của thù hận trá hình nhân đạo
Em đâu biết mạ vàng gươm giáo?
Em có hay tàn bạo tô son?
Cơm chưa no mà nói chuyện thiên đường!
Áo chưa ấm mà xiểm gièm địa ngục!
Ai dám bảo thế này là hạnh phúc
Hãy trả tôi về địa ngục những ngày xưa
Anh không muốn nhìn em dầu dãi nắng mưa
Đem tàn lực cho những tràng pháo tay bội bạc
. . . . . .
rót vào trí não Hiếu sau đó biến thành thứ thức ăn vô hình chạy xuống bao tử. Anh như không còn đói sau khi nghe hết bài thơ. Chừng một tháng, Hiếu thuộc làu bài thơ nhưng anh không biết tác giả của nó như thế nào?

Hiếu đoán chừng Thái có thể là tác giả bài thơ nhưng anh cũng hết sức thận trọng vì nội dung của nó. Hiếu thích câu đầu tiên, “Ở đây cũng có con người!” như khuyên anh hãy an tâm, tuy rằng những câu tiếp theo với anh mang đầy hệ lụy tính chất ma quỉ mà mẹ đã cảnh báo từ những ngày còn thơ. Hơn thế nữa những năm về sau mỗi khi nhớ lại bài thơ, Hiếu chỉ thấy một quãng đường dài cuộc đời tách biệt bên ngoài không hề ăn nhập gì đến bản thân anh, một con người đang trên cuộc hành trình tìm trở lại một quê hương hầu như đã biến mất sau khi anh vào trại cải tạo.

Ngày ấy bài thơ có thể cho anh cảm giác no, nhưng chưa chắc cho anh an toàn nếu bài thơ phổ biến ra bên ngoài. Có nghĩa nó chỉ thuần túy là thức ăn tinh thần của riêng anh và có thể cả Thái. Hiếu tự an ủi như vậy! Thái cùng tổ với Hiếu là một người ít nói, trầm mặc. Không lớn tuổi hơn Hiếu bao nhiêu, Thái có lần kể với anh, mình gốc sĩ quan chiến tranh chính trị chi khu Tuy Hòa. Lúc lao động chung, Hiếu mời Thái một điếu thuốc. Thái vui vẻ cám ơn nhưng không nói chuyện nhiều. Thái độ của Thái hết sức cam chịu hoàn cảnh trong khi nội dung bài thơ lại vô cùng ác liệt, mâu thuẫn với biểu hiện bên ngoài của anh. Khi Hiếu thuộc bài thơ nằm lòng rồi, một tối anh sang chỗ nằm của Thái hút điếu thuốc lào. Nhả khói lên trời, tâm trí lơ mơ Hiếu nói, “Ai dám bảo thế này là hạnh phúc/hãy trả tôi về địa ngục những ngày xưa” khiến Thái giật mình nhìn sửng anh rồi hỏi nhỏ, “Anh cũng biết bài thơ này hay sao?” Hiếu gật đầu, “Thì nhờ anh tôi mới biết.” Lúc này Hiếu ngồi xuống sàn giường tre của Thái nói, “Tôi thích lắm vì tôi là người yêu thơ!” Thái xuống giọng, “Xin anh cẩn trọng! không phải bài thơ bình thường!” Hiếu hỏi tác giả, Thái bảo do một người bạn tù sáng tác. Sau đó cho biết gia đình anh một vợ hai con đã di tản ra nước ngoài từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 trong lúc Thái còn kẹt ngoài Tuy Hòa.

Tuy nhiên điều đáng buồn là ba tháng sau, Thái bị đưa sang một trại khác. Về sau có người bảo Thái đã chuyển ra Bắc. Ngày 23 tháng 4 năm 1977 Hiếu cũng lên tàu Sông Hương tại Tân Cảng Sài gòn chuyển ra trại cải tạo Vĩnh Quang tỉnh Vĩnh Phú. Suốt năm năm sống ở phân trại K1 và K2, Hiếu cố ý tìm Thái qua dò hỏi những người bạn quen từ Sơn La, Lào Cai di chuyển về, nhưng không ai biết tin tức của anh ta. Bao giờ nghĩ đến Thái, Hiếu luôn nhớ đến bài thơ “Ở Đây” đã giúp anh đỡ đói những ngày còn trong trại do bộ đội quản lý tại Phước Long.

Ngày hôm nay về trại giam Z30D xa xỉ này thật một trời một vực khi so sánh với những ngày đốn tre, chặt gỗ làm nhà năm xưa. Lúc ấy trong đầu Hiếu hay nẩy sinh câu hỏi, có khi thực tế có khi cũng rất xa vời cho nên làm anh thường xuyên mất ngủ, lo lắng những chuyện không đâu ra đâu. Ngày hôm nay không còn mảy may câu hỏi kiểu ấy, đôi khi Hiếu không thèm hỏi vì lúc câu hỏi vừa cất lên trong đầu đã có câu trả lời tiếp theo ngay tức khắc. Cuộc đời quả là môi trường giáo dục tích cực nhất! Hiếu nhận thức như vậy.

Những buổi trưa về nhà sau buổi lao động, lãnh cơm với chút thức ăn như cá kho, canh bí và ăn vội vã để leo lên sàn nằm đánh giấc ngủ trưa, Hiếu cảm giác mình thật đã. Đây là khoái lạc mà anh nghĩ từ hôm chuyển về trại này. Hiếu được viết thư về nhà để cho gia đình biết một tháng có thể thăm nuôi một lần vào hai ngày cuối tuần. Nhưng từ lâu Hiếu không liên lạc với người thân ngoài Trung nên anh cũng chả buồn viết thư. Thức ăn phát trong trại cho anh thấy đủ, còn nếu có thiếu thốn theo ý nghĩa nhàn rỗi thì bạn bè bù vào. Những người bạn tù của Hiếu, trở về Nam gần nhà hơn và chế độ thăm nuôi dễ dãi nên người nào cũng đầy ắp thức ăn dự trữ. Từ lần thăm thứ hai, nhiều người đã bỏ cả thức ăn trại phát. Họ ăn uống những thứ xa xỉ như gà luộc, heo quay, vịt quay giống ở nhà, chỉ thiếu có rượu. Chế độ tù tội miền Nam đặc trưng tư bản chủ nghĩa hơn kiểu xã hội chủ nghĩa miền Bắc.

Buổi tối nghe mùi thuốc lá thơm phức sàn trên, Hiếu ló đầu thấy Quảng đang phì phèo điếu thuốc lá đầu lọc ba số năm vừa đọc báo Thanh niên giống như sau bữa cơm tối gia đình. Thấy Hiếu, Quảng đặt tờ báo xuống hỏi, “Có gì không Hiếu?” Hiếu lắc đầu chỉ điếu thuốc Quảng đang kẹp trong tay. Sốt sắng Quảng móc túi trên lấy một điếu ba số năm cho Hiếu. Trở về chỗ nằm, Hiếu săm soi điếu thuốc rồi đưa lên mũi ngửi. Anh không vội đốt nhưng lại nhìn chăm chú điếu thuốc như nhìn một người thân bấy lâu thất lạc. Cuối cùng Hiếu đốt điếu thuốc, lặng lẽ hút. Hít thật sâu, mơ hồ tìm thấy cảm giác cũ nhưng vẫn không thấy gì, tuy hơi thuốc thơm nhẹ nhàng nhưng lại xa lạ. Hiếu nhận ra mình không phải như mình nghĩ. Thân thể anh vẫn vậy nhưng cả con người có chút gì không thuộc con người cũ. Phải chăng đây là con người mới mà người cộng sản chiến thắng mong ước? Điều này theo Hiếu không đúng. Anh vẫn vậy, vẫn thù ghét nếu không muốn nói là căm hận chủ nghĩa cộng sản, khi đặt nó vào giữa hàng tỉ người đang sống trên trái đất này. Bao giờ nó cũng là thứ vi trùng bệnh hoạn nhơ nhớp! Nếu ví loài người là một thân thể thì thứ vi trùng này đã tạo nên bao bệnh tật nguy hiểm trên thân thể này và nó còn đang lây lan thêm nhiều hơn nữa.

Nửa đêm Hiếu thức giấc. Chung quanh yên lặng, thỉnh thoảng có tiếng bước chân gần xa của người công an gác ngoài sân. Hiếu ghé mắt nhìn bên ngoài khung song sắt. Ánh điện vàng vọt chung quanh dãy nhà giam kéo một vệt dài cho đến tận trong rừng. Trời có sương mờ quầng chung quanh bóng đèn điện. Có gì khác lạ với một khu phố ngoại ô về khuya. Hiếu nằm ngửa nhìn lên nóc mùng. Bên trên anh, Vĩnh trở mình. Có tiếng thở dài, Hiếu giật mình không biết tiếng thở của ai? Buồn bã lạc lõng! Đã bốn tháng trôi qua từ khi Hiếu từ miền Bắc trở về. Những bạn bè anh đều hy vọng: gần nhà và gần về. Ai cũng nghĩ như thế trừ Hiếu. Anh không tin mình có thể được thả sau khi bị còng tay, lên xe lửa có người hộ tống từ Nam Hà về đến Hàm Tân Thuận Hải, để rồi trở về gia đình một cách nhẹ nhàng êm ả như thế? Hiếu thở dài, và nhận ra tiếng thở của mình. Chỉ có anh nửa đêm thức giấc nhìn lại mình như thấy một thực tế vô định, không có lối thoát! Anh chợt nhớ đến Sâm, cùng trại từ miền Bắc về gốc đại úy cảnh sát đặc biệt, tuần rồi mời anh uống trà và ăn kẹo đậu phọng. Sâm vừa được đám em thăm nuôi. Thay vì vui vẻ, Sâm buồn bã nói, “Thấy ba đứa em tôi đau lòng vô cùng!” Cả ba đứa em của Sâm đều trên hai mươi tuổi. Đứa lớn nhất đã hai mươi tám là thầy giáo cấp hai và hai đứa em gái còn lại đang học sư phạm nhưng Sâm vẫn cứ ray rức. Tại sao? Hiếu tò mò hỏi. Sâm bảo, “Cha mẹ mất khi tôi vừa ra trường cảnh sát. Là anh cả tôi có hứa với cha mẹ bảo bọc ba đứa em. Khi tôi đi tù đứa lớn mới hai mươi, hai đứa còn lại còn bé. Tôi đau lòng vô cùng vì luôn cảm giác không làm tròn bổn phận!” Hiếu nghe lòng buồn cười nhưng không nói ra, bèn an ủi Sâm. Sâm cho biết mình còn bị đau bao tử kinh niên, những ngày gần đây cứ lên cơn vào ban đêm không ăn ngủ được. Hiếu trước khi trở về buồng khuyên bạn đừng lo nghĩ vì đau bao tử rất khó lành bệnh với những kẻ mà tinh thần đau khổ hay lo lắng không yên.

Về buồng buổi trưa nằm nghỉ, Hiếu thật không hiểu một sĩ quan cảnh sát ngạch biên tập, ngành an ninh tình báo như Sâm lại có thể ủy mị như thế! Tự dưng Hiếu tự bảo “ở đây cũng có con người mà!” liên hệ máu mủ thường cho người ta xúc cảm, khêu gợi bi thương. Đôi khi phung phí tình cảm vô ích bởi hoàn cảnh không thay đổi được gì! Tựu chung Hiếu nhận ra Sâm không được bình thường trong điều kiện đáng lẽ ra rất bình thường. Nếu bảo so sánh điều kiện giam giữ giữa hai miền Nam Bắc, thì hiện tại có thể bảo Z30D là một trại giam không những tiện nghi mà còn hết sức xa xỉ sang trọng!

Định mức lao động lên luống khoai lang miền bắc một buổi 50 mét, về Nam tăng lên 70 mét. Nhưng chất lượng miền Bắc hơn miền Nam rất nhiều. Luống khoai miền Bắc thẳng tắp cao to trong khi miền Nam ngoằn ngoèo với chút đất phía trên như một gờ đất. Rất dễ hiểu vì lao động miền Bắc nghỉ giải lao chỉ có một lần mười lăm phút để uống nước trà nóng và hút thuốc lào. Đến giờ lao động có cán bộ quản giáo hay lính gác kêu gọi nhắc nhở. Trong khi một buổi lao động miền Nam tù nhân được nghỉ nhiều lần, ăn uống thoải mái từ quà cáp gia đình mang đến. Bên cạnh đó cán bộ quản giáo đội thường xuyên vắng mặt, trách nhiệm hoàn toàn trong tay đội trưởng. Hai người lính gác tù miền Nam lơ mơ với thuốc lá ngoại thơm đầu lọc và những cô gái đốn củi, hầm than trong rừng đến gần ve vãn nói chuyện. Và chỉ tiêu lao động miền Nam qui định sẵn do đội trưởng sắp đặt với cán bộ thông qua quà cáp biếu xén nhận được từ những người tù cải tạo. Mỗi đội là một đơn vị kinh tế đã được hạch toán định mức, nói theo ngôn từ xã hội chủ nghĩa, qua đó mà bộ máy lao động của trại cải tạo miền Nam êm ả vận hành. Chất lượng hay số lượng từ kết quả lao động có lẽ cũng được tính toán từ kiểu cơ bản nói trên nên không có gì đặc biệt nghiêm trọng xảy ra. Và người tù nào tới ngày về, sẽ ra về theo một qui trình tất yếu của cục trại giam thuộc bộ nội vụ sắp đặt sẵn.

Mười giờ rưỡi sáng Hiếu ngồi trên đống lá khô êm dày đầu tựa vào gốc cây dầu to ngủ gật trong lúc giải lao giữa buổi lần hai, chợt anh thấy dưới chỗ ngồi của mình động mạnh. Mở mắt nhìn chỉ thấy một con rắn xám đen to như cổ tay từ dưới đùi đang phóng vọt ra phía trước. Hiếu hét to “rắn, rắn!” thì Quảng đang ngồi phía bên trái phóng tới chụp được đuôi con rắn giật ngược lên trời rồi vung một phát xuống đất. Con rắn gãy xương nằm trơ trong lúc Quảng cười to và đám người trong đội vừa vác cuốc chạy đến. Con rắn hổ mây nằm dưới đống lá khô mà Hiếu vô tình ngồi lên trên. Quảng nâng con rắn lên ước lượng hơn hai ký lô! Mọi người tò mò đến xem và nhìn Quảng thán phục sau đó tản đi. Khác hẳn với miền Bắc bắt được rắn là được bồi dưỡng. Vì chế độ cải tạo trên quê hương xã hội chủ nghĩa thiếu thốn triền miên, thịt rắn đối với tù nhân là cao lương mỹ vị trong khi tại miền Nam, giết được con rắn hơn hai ký lô không ai tỏ vẻ mặn mà. Hiếu đến gần dùng hai tay xách con rắn lên ném cho ông già Sửu lúc này đảm trách việc nấu nướng. Sửu làm sạch con rắn chặt khúc cho vào thùng chứa nước nặng trĩu. Lang hứa cho gia vị cà ri để nấu. Hiếu nói với Quảng, “Tụi mình có món ngon chiều nay, chỉ tiếc thiếu rượu!” Quảng cười nói nhỏ, “Tối nay sẽ có!” rồi quay về luống khoai lang tiếp tục lên đất. Buổi lao động tiếp tục trong không khí ơ thờ rời rạc. Đội trưởng Trang kiểm tra kết quả lao động cuối giờ, cả đội tập họp trong tiếng kẻng hết giờ rền vang và kéo xuống suối tắm trước khi trở về trại.

Bữa cơm chiều mọi người lãnh rồi về chỗ nằm ngồi ăn. Món cà ri rắn nấu được phát cho từng người trong đội, tuy nhiên chỉ có hai mươi người ăn. Mười lăm người còn lại không nhận phần cà ri vì lý do họ quá dư dả thức ăn tươi ngon gia đình tiếp tế hai ngày cuối tuần vừa qua. Hiếu nhận một tô lớn thịt rắn còn bốc khói đặt trước mặt. Anh gắp một mẩu thịt to nếm thử. Miếng thịt rắn màu vàng sậm đậm đà cay ngọt, thơm lừng mùi gừng sã. “Thật đáng đồng tiền!” Hiếu quay sang khen Sửu đang ngồi cạnh thì Quảng tầng trên ló đầu xuống bảo, “Hiếu, lên đây ăn cơm với tao!” Ngồi trên giường Quảng, Hiếu và đội phó Vạn chia nhau uống sáu lần rượu đế trong bi đông với mồi cà ri rắn. Lúc này đèn điện đã sáng và cứ như thế, một buổi tối không sinh hoạt đội trôi qua với ba gã tù nhân âm thầm uống rượu cùng cảnh báo của Quảng, “Uống không được say!” Bảy giờ rưỡi tối Hiếu mới trở về chỗ nằm. Chỉ với sáu nắp bi đông rượu, Hiếu đã thấy trời đất quay cuồng tuy nhiên, anh cảm nhận trọn vẹn một bữa ăn tối thịnh soạn hiếm hoi. Trước khi đi vào giấc ngủ Hiếu còn thấy chập chờn bóng hình người con gái mà anh đã hôn ngày xưa.

Buổi trưa tháng sáu khu vực rừng lá hết sức oi bức! Nắng mùa hè làm bốc lên hơi nóng mờ mờ giăng kín cả trời đất. Hiếu dừng cuốc đứng nhìn rặng núi Mây Tàu xa xa trong cái nóng hừng hực tưởng tượng thời mình còn đóng quân ở Quảng Nam chịu cái nắng cháy da thịt miền Trung. Đơn vị anh đóng bên này sông Kôn mà dù nắng gay gắt đến mấy nhìn dòng nước trong xanh lặng lẽ trôi về biển, Hiếu dường như cảm thấy cái nóng gay gắt giảm đi nhiều. Ngày ấy cứ đứng một mình là Hiếu nhớ đến Cầm, cô con gái con bà chủ nhà mình trọ suốt ba năm học đại học văn khoa Sài gòn. Cầm không phải người yêu của anh, nhưng anh vẫn nhớ bởi đêm cuối cùng năm thứ ba trước khi lên đường đi thủ đức khóa 2/71, anh đã hôn Cầm trong khi say rượu. Tuy say nhưng Hiếu nhận ra Cầm đáp trả nụ hôn cuồng nhiệt, và anh cảm nhận nó ngọt ngào xiết bao! Nụ hôn kéo dài dưới bếp vào lúc mười một giờ đêm, khó làm ai có thể cưỡng lại được: một tình huống đam mê trong ánh sáng nhấp nhem nhà bếp, khi Hiếu về khuya và Cầm ra mở cửa. Cầm bấy giờ mười tám tuổi, đang học đệ nhất ban C trường Lê Bảo Tịnh. Tư cách của Hiếu, bà Duyên chủ nhà và là mẹ của Cầm hết sức kính nể vì suốt ba năm ở trọ, căn phòng cạnh bếp chưa bao giờ thấy Hiếu đưa về bạn gái. Thỉnh thoảng vài người bạn trai đến chơi ngủ lại, hôm sau mạnh ai nấy đi. Lúc Cầm học đệ nhất cấp, Hiếu thường giúp giải toán, soạn bài văn cho cô vào dịp kỳ thi cá nguyệt. Hiếu bao giờ cũng là người anh và người thầy khả kính đối với cô.

Hiếu thực tế ngây thơ về đường tình ái bởi anh là sinh viên nghèo trọ học. Khó khăn trong việc chi trả tiền bạc cho việc ở trọ, sách vở, và phương tiện đi lại tốn kém như thế, nên anh dứt khoát chủ trương mình không đủ sức trang trải thêm cho một mối tình; dù là cô gái thật nghèo nào đó là chuyện tất nhiên. Do đó Hiếu an phận và hết sức tiêu cực trong việc xã giao với người khác phái. Suy nghĩ ấy dần dần trở thành mặc cảm, dù bản thân anh vẫn có những khao khát yêu đương hết sức bình thường. Hiếu thận trọng trong việc tiếp cận với Cầm. Nhưng dù thế nào chăng nữa, anh cũng có cảm tình với cô gái mà anh xem như học trò của mình. Một số bạn bè bấy giờ hết sức bất bình cho thứ suy nghĩ bảo thủ kiểu tỉnh lẻ ấy của Hiếu. Họ bàn tính khuyên nhủ Hiếu vì nhận ra anh ái mộ Cầm trong thinh lặng, nhưng vẫn không hề thay đổi lập trường cứng rắn của mình. Trung là bạn thân Hiếu một hôm bảo anh, “Mày không phải lo lắng tốn kém gì nếu can đảm một buổi tối bất ngờ ôm hôn Cầm. Sau đó tình yêu sẽ bất chiến tự nhiên thành!” Hiếu suy nghĩ dù không hiểu rốt ráo đề nghị của Trung, nhưng anh cảm thấy hình như Trung không đùa với mình. Sau đó Hiếu quên đi chuyện ấy để rồi khi bị tổng động viên, một buổi tối uống rượu say, anh đã nồng nhiệt hôn Cầm tại góc tối nhà bếp như giã từ sự nhẫn nại ngu ngốc của mình, và cho người con gái ấy rõ mình cũng biết việc yêu đương như thế nào? Tuy vậy hôm sau tỉnh rượu, Hiếu lặng lẽ ra đi vẫn trong sự ngu si khờ khạo, mà không hề biết nụ hôn của mình quan trọng như thế nào, đối với người con gái lần đầu tiên nhận được.

Ngày hôm nay hơn tám năm trôi qua, từ một nụ hôn tình ái đầu tiên cho đến bảy năm tù tội, Hiếu lúc nào cũng thấy mình ngây thơ và vô tội. Với tình yêu anh ngây thơ và trong ván bài chính trị anh vô tội. Anh bảo “tôi không có tội gì ngoài tội sinh ở miền Nam! Việc này hoàn toàn ngoài ý muốn bản thân, thế nên tôi vô tội!” Hiếu viết rõ như thế trong nhiều bản tự khai của mình và chỉ một lập luận suốt bảy năm cải tạo. Tuy nhiên không cán bộ cộng sản nào phê phán anh đúng hay sai, và chỉ chiếc bóng thời gian là chứng nhân duy nhất cuộc đời tù tội mà anh cho là vô lý đó. Hiếu kể mỗi đêm trước khi chìm vào giấc ngủ, anh luôn thấy bóng đen thời gian mỉm cười với anh. Trong giấc ngủ nhiều lần anh bắt tay với gã đàn ông đen đúa khốn kiếp ấy! Khi thức giấc nhớ lại Hiếu cho là anh thỏa hiệp với nó, nhưng anh cũng tự bào chữa, “không thỏa hiệp với thời gian chỉ một con đường tự sát!”

Buổi chiều thứ sáu đi làm về chưa kịp lãnh cơm tối, có lệnh tập họp phân trại. Trại trưởng thiếu tá công an là một ông già đầu bạc ốm cao đưa tay ra dấu mọi người lắng nghe, rồi trầm giọng Quảng Bình buồn rầu nói:

“Cải tạo viên Nguyễn văn Sâm, cựu đại úy cảnh sát đặc biệt ngụy lợi dụng sự khoan hồng của nhà nước cho đi diện rộng đã trốn trại hai ngày nay. Chúng tôi cho lực lượng an ninh truy tìm nhưng chưa có kết quả. Tuy nhiên anh ta sẽ bị bắt lại trong nay mai, và các anh không được ồn ào hay mất trật tự. Những ai không chấp hành kỷ luật, nội qui sẽ bị trừng trị thích đáng.”

Sau đó tan hàng mọi người về buồng. Hiếu lặng lẽ ngồi bó gối trên sàn xi măng không buồn đi lãnh cơm. Ông già Sửu lấy cơm về đặt trước mặt anh. Hiếu lặng lẽ ăn cơm nhưng đầu óc lúc nào cũng chập chờn khuôn mặt buồn bã của Sâm, như đang than thở với anh về hoàn cảnh gia đình của mình. Phải chăng đó là lý do khiến Sâm trốn trại, và dù có về đến gia đình thì anh ta làm được gì? Chắc chắn Sâm sẽ bị bắt trở lại. Hiếu suy đoán và hết sức lo lắng cho anh ta! Ốm yếu như Sâm liệu có thể chịu đựng được mấy báng súng AK nhỉ? Hiếu tự hỏi nhưng không ai trả lời. Buổi tối hôm nay hình như ông già thời gian trêu cợt anh nhiều hơn. Tuy thiếp vào giấc ngủ Hiếu còn cố hỏi ông, “Ông cười vì có người không chịu thỏa hiệp với ông phải không?”

Tuần lễ sau, buổi trưa mọi người sau khi đi lao động về, có tin đã tìm thấy Sâm trong vạt rừng không xa phân trại hai. Sâm treo cổ tự tử tại một góc rừng rậm phía Nam, nơi rất ít người đặt chân đến. Nhờ một trại viên đi vệ sinh bất ngờ phát giác. Xác người chết đã bắt đầu phân hủy: nửa thân còn dính trên cao, nửa thân dưới đã rơi xuống đất. Trại cắt người gom xác chết còn lại của Sâm chôn cất sau đó thông báo chính thức với trại viên và thân nhân của anh ta. Hiếu bây giờ như thông suốt quá trình tự tử của Sâm. Anh không thắc mắc hoặc buồn rầu. Có ai bình luận gì với Hiếu về cái chết của Sâm, anh chỉ nói, “không thỏa hiệp với thời gian chỉ có chết!”

Mùa thu trôi qua trong trại cải tạo buồn chán với nhịp điệu lao động rời rạc quen thuộc, cùng âm thanh của những bước chân trên mặt đất bạc thếch, khô khốc do mùa hè mới qua. Tiếng cuốc đất đều đặn xen tiếng gió luồn trong từng vạt lá buông gợi lòng người tù nhớ một thứ gì đó thật xa vời! Hiếu dừng cuốc lắng nghe âm thanh xào xạc của rừng lá, ngước mắt thẩn thờ nhìn các phiến mây trắng đục lững lờ trên nền trời u ám. Rồi rền vang âm ỉ tiếng mưa xa vọng về một mùa ký ức. Nơi đó cô đọng một nụ hôn đã hoàn toàn tan rã, nhưng chút dư vị mỏng manh tươm thấm vào trí não lại kéo dài bất tận. Nụ hôn ấy vượt qua bao rào cản chính trị, len lỏi vào sâu tận mọi ngóc ngách tâm hồn Hiếu. Anh chợt ngây ngô đờ đẫn, liếm môi và trên làn da của mười đầu ngón tay gợn cảm giác đôi mông rắn chắc của Cầm đêm say rượu tám năm trước.

Đội bắt đầu nghỉ giải lao. Hiếu nhìn bạn bè ngồi rải rác bên dưới những tàng cây trong khi Vạn đội phó đến gần nói, “Nghỉ giải lao!” Hiếu lùi lại nâng cuốc lấy sức ném sang bên phải nơi gốc cây sao vừa đẵn tuần trước vừa la lên, “Ông đếch cần!” Vạn ngạc nhiên thấy Hiếu nhảy lên thân cây sao tiện tròn như chiếc ghế đẩu, đứng ngửa mặt nhìn trời. Vạn hỏi, “Mày làm gì thế!” Hiếu cộc lốc, “Tao nhìn trời!” Vạn cười:

“Nhìn làm gì?”
“Kêu trời!”
“Mày điên rồi!”

Hiếu không nói gì thêm chỉ đưa tay lên che mắt nhìn vào khoảng trời xanh rồi quay nhìn cả đội đang ngồi giải lao. Hiếu thở dài, thân xác anh đi một vòng bảy năm nhưng trí não lại chập chững như đứa trẻ. Anh ngây thơ, chính Trang đội trưởng cũng thừa nhận tính trẻ con dễ thương này của Hiếu. Có lần Trang hỏi chuyện tình cảm, Hiếu kể về nụ hôn Cầm ngày xưa. Trang cười, “Tôi hiểu vì sao cậu ngây thơ. Chính nụ hôn duy nhất ấy giữ cậu mãi trẻ không già!” Hiếu nghe hừ một tiếng rồi bỏ đi. Một tháng sau Hiếu hỏi Trang, “Làm thế nào tôi quên được nụ hôn ấy?” Trang trả lời, “Nụ hôn thứ hai sẽ làm cậu quên nụ hôn trước và cứ như thế tiếp tục…” Đêm ấy Hiếu ao ước, “Giá có nụ hôn thứ hai, nhưng bao giờ nhỉ?” Hiếu tự hỏi và dường như không có câu trả lời. Thực ra anh không biết mình muốn quên đi nụ hôn ban đầu hay chỉ mong ước có lại được cái cảm giác do nụ hôn ấy mang đến?

Tháng sau, Vạn đội phó được cho đi diện rộng, và Hiếu được Trang cùng một số người trong đội đề cử, cất nhắc lên thay thế Vạn. Ban đầu Hiếu từ chối bảo mình không thích hợp, nhưng ông già Sửu cứ mãi thúc cùi chỏ vào hông anh trong buổi họp đội tối thứ sáu, Hiếu đành nhận lời sau khi nói với Trang đội trưởng, “Tôi làm đội phó tạm mà thôi, anh cố tìm người khác thế tôi nhé!” Sau buổi họp Trang đến gặp Hiếu hỏi lý do, Hiếu nói nho nhỏ, “Thì tôi đang tìm người hôn như anh khuyên. Làm đội phó thì giờ đâu?” Trang lắc đầu bỏ đi thì ông già Sửu quay sang Hiếu nói, “Chính mày làm đội phó mới có cơ hội hôn con Lan giao liên, tao thấy lần nào vào nhà lô xin nhặt củi nó cứ liếc mày hoài.” Hiếu hỏi ngay, “Thật không ông già? Nhưng hôn sao được đây?” Lúc này ông già Sửu mới lết sang chiếu của Hiếu thì thào, “Mày thật ngây thơ đến ngu ngốc, chỉ có đội trưởng và đội phó mới có thể đi xa đội mà không cần xin phép. Mày hẹn con Lan vào một lùm bụi nào xa xa, lúc đó mày tha hồ bốc hốt ai mà biết, không chừng con Lan cho mày đi xa hơn đấy!” Trong lúc ông già Sửu lúi húi hút thuốc lào, Hiếu mơ màng suy nghĩ, “Sao mình ngu vậy, ông già Sửu nói đúng…” nhưng khi nhớ tới đôi mắt lác của Lan, Hiếu lắc đầu như muốn xua một bóng tối, rồi thở dài nhớ Vạn từng kể, “Con Lan là đảng viên bị hạ tầng công tác. Nghe đâu nó ham hẹn hò lắm, cứ nhìn con mắt nó thì biết!” Vạn ngưng vài giây rồi tiếp, “Nó liếc trai đến độ mắt lác không thấy sao?” Thấy Hiếu như ngẩn ngơ Vạn lại nói như an ủi, “Mắt nó lác, nhưng thân hình không chê vào đâu được!” Lúc này Hiếu nhớ mình hay liên tưởng mỗi khi Lan cúi xuống gom củi đưa lưng mông về phía anh. Buổi tối Hiếu nằm mơ màng nụ hôn Cầm và vòng tay ôm chặt của mình trong đêm tối xa xăm nhưng đầy ám ảnh ấy.

Từ khi làm đội phó, Hiếu cảm thấy sung sướng thoải mái khi đi xa hơn khu vực lao động hằng ngày. Nhiều hôm mượn cớ đi tìm đất khai quang mở rộng khu vực lao động, anh đến tận rìa khu vực phân trại 2. Trên đường đi Hiếu gặp các cô gái hầm than, đốn củi. “Thật xinh gái”, Hiếu thầm khen những cô gái gầy gò đen đủi vì nắng, áo quần lam lũ, rách nát bởi nghèo khổ và lao động nặng nhọc nhưng làm như có sức thu hút lạ lùng. Buổi tối về kể với ông già Sửu, ông lập lại lời nói những ngày lao động miền Bắc, “Ở quá lâu trong tù, gặp con khỉ cái cũng thấy đẹp!” Hiếu rùng mình lại nhớ tới cái lưng trắng và đôi mông đẫy đà của con Lan giao liên. Anh tự nhủ, “Phải làm sao hôn nó mới được!” rồi thiếp ngủ mất.

Tuần lễ sau Hiếu lại sang khu vực lao động phân trại 2 cùng lúc một đội bên ấy đang nghỉ giải lao. Hiếu đến gần xin phép với hai công an bảo vệ. Sau đó ngồi uống nước và nói chuyện với Giáo một người bạn quen lúc còn ở Vĩnh Quang. Hiếu lại hỏi thăm về Thái, Giáo lắc đầu thì một người tù chừng tuổi Hiếu ngồi cạnh Giáo nói với anh, “Trông anh thật là quen, không biết gặp ở đâu?” Hiếu nhìn ngờ ngợ thì bất chợt nhớ đến một người bèn la lên, “Bạn của Phác phải không?” Anh bạn tù nhoẻn cười, “Tôi nhận ra anh từ đầu nhưng chờ xem anh có nhớ hay không? Tôi là Phan đi uống café vài lần với anh trong thời kỳ quân sự học đường. Anh Hiếu, học triết với Phác!” Hiếu mừng rỡ chồm tới bắt tay Phan, trong đầu hiển hiện hình ảnh Phan bị phạt cầm M16 nhảy xổm mỗi tối chủ nhật vì lén trốn trại về Sài gòn. Phan biệt động quân, nổi tiếng ba gai trong thời kỳ Hiếu còn làm huynh trưởng huấn luyện khóa đàn em 5/72. Phan hỏi thăm Phác, Hiếu lắc đầu, “Đã không gặp trước ngày tan hàng!” lúc này Phan mới thở dài bảo, “15/6 tôi đưa Phác vào trường Chu văn An trình diện, tháng sau tôi đi trình diện Don Bosco cho đến bây giờ, có được tin gì đâu?” Hiếu chợt bảo, “Tôi biết đám người trình diện trong tháng 6, phần lớn ra Bắc. Nhưng cũng có một số đã được thả về qua tin tức thăm nuôi. Biết đâu chừng Phác đã về nhà rồi!” Phan nghe trầm ngâm không nói. Anh nhớ hôm đưa Phác vào trại không có Thủy. Hỏi Phác, anh ta bảo, “Sự việc bi thảm chứ không chỉ buồn. Tao sợ Thủy đứt ruột…” lúc ấy Phan hiểu cách nói của Phác. Phan lắc đầu nói với Hiếu, “Công việc của Phác, tôi chỉ sợ còn rất lâu mới được tha!” Phan lại nói mình chỉ ở trong các trại miền Nam, “Tôi chỉ là thằng sĩ quan bóp cò, còn ông trước tôi vài khóa sao lại phải ra Bắc?” Hiếu nhăn mặt, “Ban đầu tôi cho là nhầm lẫn vì tôi cấp bậc thiếu úy chiến tranh chính trị thuộc tiểu khu Quảng Nam. Nhưng ở lâu trong tù tôi khám phá lý do, anh đừng hỏi để tôi nói.” Hiếu dừng lại mắt liếc chung quanh rồi xuống giọng, “… rất khó tin, tôi ra Bắc vì tôi vô tội!” Nghe Hiếu nói, cả Giáo lẫn Phan đều ngạc nhiên sau đó cười xòa không nói gì. Làm như cả hai thấu hiểu câu nói của Hiếu. Tiếp theo Hiếu chào Phan và Giáo sau khi hẹn có dịp sẽ nói chuyện thêm.

Về đến nhà lô của đội, Hiếu đứng tại hông nhà báo cáo sơ với Trang về những phần đất mới có thể cho đội phát quang nay mai. Trong khi Trang lấy sổ tay ra ghi chép, nhìn qua cửa sổ Hiếu thấy Diễn, cán bộ quản giáo đội đang nhậu thịt chó với hai lính gác liền đi xuống chỗ nấu nước. Ngồi uống ly nước trà nóng do ông già Sửu đưa, Hiếu lẩm bẩm, “Tôi vô tội mà! Phải chăng vì thế mà tôi cứ ở tù hoài?” Ông Sửu nghe Hiếu nói rất nhiều lần, cả trong lúc ngủ mớ nên không thắc mắc. Ông nghe Hiếu nói từ ngoài Bắc lúc cả hai còn trong đội rau xanh. Lúc ấy ông an ủi anh, “Tôi hiểu! Tại sao lại giam anh với một người có thành tích chống cọng bốn mươi lăm năm như tôi, anh phải biết, tôi chống cộng sản từ năm 16 tuổi. Giam quan một chung với quan năm, như thế vị thiếu úy hai mươi bốn tuổi ắt có vấn đề. Nhưng vấn đề gì thì tôi không biết, hôm nào anh hỏi cán bộ xem sao?” Hôm phân trại mở lớp học chính trị, Hiếu bèn hỏi cán bộ chính trị từ trung ương về. Ông ta lấy sổ tay ra ghi chép, dường như nguyên văn câu hỏi của Hiếu, “Tôi vô tội. Không thể giam một thiếu úy lâu đến như thế này?” với lời hứa, “Sẽ đưa trường hợp của anh lên trung ương và sẽ sớm có kết quả!” Lời hứa này kéo dài mà không hề cho kết quả càng củng cố lập luận “vô tội” của Hiếu vì không cán bộ nào xác nhận hay bài bác luận điệu của anh cả!

Sáu tháng tiếp theo, Hiếu cùng ông già Sửu lên tàu thống nhất vào Nam. Đến trại Z30D, ông Sửu nói với Hiếu, “Họ lại gửi tôi và anh vào Nam, thế nên tình trạng chúng ta vẫn không có gì thay đổi. Tuy nhiên được gần nhà cũng là một ưu tiên.” Một trung tá ở tù chung với một thiếu úy mãi mãi là một ám ảnh khôn nguôi đối với Hiếu. Cho đến một hôm, Hiếu nói chuyện với cán bộ trực trại về tình trạng tù tội của mình. Thượng úy Liêm, giọng đặc Nghệ An bảo, “Anh làm sao vô tội được khi là một sĩ quan ngụy chống lại cách mạng. Ngoài cầm súng anh còn xử dụng mồm mép chiến tranh chính trị kia, do đó không những có tội mà còn tội nặng nữa kìa! Trong vùng tạm chiếm ai cũng có thể là kẻ thù lâu dài của cách mạng.” Hiếu phản bác, “Cán bộ nói thế thì cả nhân dân miền Nam đều có tội hay sao? Hãy nhốt họ lại đi!” Nghe Hiếu nói, thượng úy Liêm gật gù trầm ngâm suy nghĩ một lát mới bảo:

“Anh nói đúng ở khía cạnh nào đó, cả miền Nam đều có tội. Nhà tù ít quá nên không đủ chỗ để giam họ nhưng họ sẽ phải chịu trừng phạt vì tội của mình. Rồi anh xem!”

Nghe thượng úy Liêm nói xong, Hiếu lủi thủi đi về trước cái nhìn đắc thắng của viên cán bộ trực trại. Hiếu không kể chuyện này với ông già Sửu. Anh im thin thít vì nghĩ đi nghĩ lại viên cán bộ trực trại nói đúng, đúng hơn nữa sau khi nghe những thân nhân của những người tù bảo, “Các anh ở trong này không biết, bên ngoài là một nhà tù lớn…” Tuy nhiên Hiếu vẫn ấm ức vì tận đáy lòng anh luôn thấy mình vô tội bằng lập luận sinh ra bên này vĩ tuyến 17 bắt buộc phải cầm súng vì không có lựa chọn nào khác!

Buổi sáng hôm nay trời trong xanh biếc thật đẹp. Cơn mưa ban tối như tẩy rửa dọn dẹp cả bầu trời đầy mây xám xịt hôm qua. Trên mặt đất làm như cỏ đã nhú mầm xanh và vạn vật tươi mát dưới cái nhìn của đám tù nhân trại giam Z30D đang lũ lượt ra đồng lao động. Hiếu đi sau cùng ông già Sửu gánh đôi thùng nước trà hướng về nhà lô. Sau khi khuân cuốc ra ngoài sân, Hiếu phân phát đủ cho mọi người với phân công hôm nay là buổi lên luống khoai cuối cùng. Ngày mai sẽ trồng khoai lang cho kịp những cơn mưa thu đầu mùa nên Hiếu được lệnh cán bộ quản giáo sang phân trại 2 mang hom khoai về cho đội.

Đường đi sang phân trại 2 hơn hai cây số phải đi theo đường mòn trong rừng. Hiếu vừa đi vừa nhìn trời suy nghĩ, anh vẫn cứ vấn vương chuyện sinh mệnh chính trị của mình. Đêm qua trằn trọc suy nghĩ, Hiếu dứt khoát cho mình một chọn lựa: nếu năm nay không được tha, anh sẽ trốn trại. Nhưng nghĩ đến cái chết của Sâm, Hiếu lại bảo, “Như thế mình cắt bỏ thỏa hiệp thời gian, chỉ có chết!” Sau đó anh lại cả quyết mình sẽ được trở về trong năm nay. Chỉ còn ba tháng nữa hết năm. Khi trở về Sài gòn, đầu tiên anh sẽ lên thăm gia đình Cầm. Cầm bây giờ có lẽ đã có chồng con, thế thì lên thăm làm gì nhỉ? Mãi mê lựa chọn trong tưởng tượng khiến Hiếu thiếp ngủ lúc nào không hay.

Qua khỏi khúc quanh, xa xa Hiếu thấy ai đó đang ngồi trên bó tre to bên lề đường mòn. Đến gần nhận ra Lan giao liên, Hiếu mừng rảo bước nhanh hơn thì Lan đã đưa tay vẫy. “Anh Hiếu lại đây giúp em một tay!” Hiếu vừa đi vừa nghĩ đến nụ hôn tưởng tượng mỗi đêm lòng thấy hưng phấn. Hôm nay Lan mặc bộ đồ bộ đội màu xanh nhưng lưng và hai nách ướt đẫm mồ hôi. Đôi giày vải đen cổ cao dính đầy bùn đất. Nhìn tay phải Lan cầm con dao quắm và đôi mắt lác liếc ngang dọc không hề theo trật tự nào làm Hiếu cụt hứng. “Giúp gì đây em?” Hiếu xuống giọng ân cần ngọt ngào đúng bài bản mà ông già Sửu khuyến cáo mỗi đêm khi gặp phụ nữ cần giúp đỡ. Lan chỉ xuống bó tre, “Anh giúp em kéo bó tre nặng này về phía xe bò đằng kia, chiếc xe không đến đây được vì khúc đường này quá hẹp.” Hiếu gật đầu bước đến gần cô ta. Cái áo bộ đội của Lan đứt hạt nút trên cùng nên Hiếu liếc thấy khoảng ngực trắng thấp thoáng bên trong kẻ hở. Lan lúc này bước sang phía đối diện và cả hai cúi xuống nâng đầu bó tre to lên rồi kéo về phía xe bò. Bó tre khá nặng nhưng cuối cùng cũng được kéo đến nơi và vất lên xe. Lan đứng trên xe thở hào hển một chân gác trên bó tre, tay kia cài con dao lên thành xe rồi nhảy xuống đất. Hiếu hỏi xe của ai, thì Lan bảo mượn của lò than. Nhìn chung quanh không thấy ai, Hiếu bèn đến gần Lan hỏi nhỏ, “Em có thuốc lá không cho anh một điếu?” Lan lắc đầu ngước nhìn Hiếu, lần nữa đôi mắt lác của cô làm Hiếu cụt hứng, nhưng trong đầu anh vẫn nhớ nụ hôn như thứ chỉ tiêu mình phải phải đạt được bất kể giá nào. Hiếu chỉ tay lên vai Lan nói, “Có con sâu kia đứng yên để anh phủi xuống.” Lan nhăn mặt tưởng thật nghiêng vai quay mặt sang trái thì Hiếu cúi xuống cổ của Lan hôn nhẹ lên khoảng trắng ngần ẩm ướt mồ hôi của cô ta. Hiếu nghe mùi nồng nồng mồ hôi lẫn mùi chua trên thân thể Lan tiết ra, cùng lúc Lan quay mặt lại hứ một tiếng thì đụng phải miệng của Hiếu. Đúng như ông già Sửu huấn luyện, Hiếu chụp cơ hội ôm chặt Lan và hôn lên môi của cô ta. Thật nhanh, anh không thấy Lan phản kháng chỉ nghe ứ ư trong miệng thì nụ hôn đã hoàn tất. Lan lúc này mặt đỏ gay, chỉ mặt Hiếu nói nho nhỏ, “Cái anh này ghê thật!” thì Hiếu lách sang bên bước nhanh như chạy về phía phân trại 2 và mau chóng biến mất sau lùm tre xanh dày đặc.

Tại phân trại, Hiếu ký nhận từ thủ kho đội một nông nghiệp hai bao tải hom khoai lang nặng mười sáu ký lô rồi vác lên vai ra về. Đi ngang đội bốn của Giáo đang tập họp phân công tác ngoài bãi, Hiếu đặt hai bao hom khoai xuống đất nghỉ thở, nhìn đám bạn tù anh cố tìm Phan và Giáo để nói chuyện nhưng không thấy. Cuối cùng Hiếu đành vác hai bao hom khoai trở về đội. Đi ngang chỗ xe bò chở tre, Lan đã đánh xe đi mất, Hiếu cười nhớ lại nụ hôn vừa rồi. Tuy đạt chỉ tiêu nhưng rõ nụ hôn không hề đạt chất lượng. Nó không cho ấn tượng gì, cảm giác có phần nhạt nhẽo khi nhớ lại. Cố gợi lại nụ hôn ngày nào, Hiếu thở dài áo não! Buổi tối kể với ông già Sửu, ông nói, “Đừng có được voi đòi tiên, hỏi thằng nào ở đây được như mày hả Hiếu?” thấy Hiếu mặt mũi nhăn nhó ông nói tiếp, “Rồi có một ngày mày thèm muốn được hôn lại, dù con nữ có mùi hôi nách đi nữa!” Nghe ông nói con nữ Hiếu phì cười, rồi nghi ngờ lời ông có quá đáng hay không, nhưng rõ ràng thân thể Lan nặng mùi chua lét! Như thế có gì hấp dẫn nhỉ? Hiếu ló đầu ra khỏi mùng hỏi, “Tại sao tôi thấy ghê ghê?” Ông già Sửu lên giọng, “Vì mày lú lẫn giữa hồn và xác. Ngày hôm nay mày cần phần xác chứ không phải phần hồn. Phần hồn tuy có nhưng lại không vì nó chỉ là tưởng tượng. Phần xác mày cần con nữ nhưng mày cố đem phần hồn ra o ép so sánh. Làm thế nào có được cái cảm giác vốn chỉ là ảo ảnh chập chờn. Hãy thực tế và nếu làm được thì một ngày mày sẽ tự bảo ôi con nữ quí giá xiết bao! Hãy tin tao đi!”

Sau khi đội trồng hoàn tất hec ta khoai lang, cuối buổi lao động đội trưởng Trang tập họp đội để cán bộ quản giáo Diễn nói lời chúc mừng khen ngợi. Nói chung ai cũng vui, thói quen tâm lý sau cực nhọc ắt phải có lời khen ngợi, tán dương. Đám tù nhân chế độ cũ vỗ tay như phản ứng có điều kiện, sau đó tản đi hút thuốc lào, và nhìn đám con gái đốn củi hầm than đang qua lại để tìm cơ hội nói chuyện. Không thấy Lan giao liên, Hiếu đi xa hơn một chút chỗ góc đường chia đôi từ trại ra lộ và đường từ nhà lô đi về phân trại 2. Hôm nay cũng rất vắng bóng người thăm nuôi. Chợt Hiếu nhớ đến Vạn đi diện rộng vừa thấy ngoài sân đã biến mất, nên Hiếu đi vội ra giao lộ tìm Vạn nhắc anh ta kiếm rượu tối về buồng uống. Vẫn không thấy bóng dáng Vạn, Hiếu luồn sâu vào rừng đi vệ sinh chợt nghe có tiếng thì thào bên trong rừng mua dày. Tò mò Hiếu đến gần nghe tiếng Vạn và tiếng Lan giỡn với nhau trong đám cây mua cao hơn đầu người. Anh chợt ngẩn người khi thấy cái quần bộ đội của Lan treo tòn ten phía ngoài bụi cây. Hiếu nhớ lại lời ông già Sửu từng khuyên mình liền tránh qua chỗ khác, và cho rằng Vạn và Lan ắt đang thân mật với nhau.

Buổi chiều cơm nước xong, do đám người đi diện rộng loan tin sắp có đợt tha khiến mọi người bàn ra tán vào. Hiếu đến chỗ nằm của Vạn hỏi nhỏ, “Mày làm gì với con Lan sáng nay?” Vạn nhìn Hiếu nhăn mặt hỏi lại, “Mày theo dõi tao hay sao mà biết?” Hiếu chưa kịp trả lời thì Trang đội trưởng đến gần vỗ nhẹ vai anh nói, “Hiếu, mày có tên được tha vào ngày mai!” Hiếu tròn mắt nhìn Trang, “Thật không? sao anh biết?” Trang ngồi xuống dưới chân giường của Vạn từ tốn trả lời, “Tao vừa họp về, chính cán bộ trực trại cho biết lần này có hai mươi sáu người được tha. Nhà chúng ta bảy người, nhưng đội hai mươi ba chỉ có một mình mày may mắn mà thôi.” Lúc này Hiếu mới tin là thật, anh run lên khản giọng, “Vạn, cho tao một viên thuốc lào.” Nhả khói thuốc ra, Hiếu lẩm bẩm, “Tao biết mình vô tội mà!” rồi lảo đảo đi về phía chỗ nằm của mình. Ông già Sửu như đã biết tin, ngồi trong mùng nói vói sang, “Chúc mừng mày!” thì Hiếu đã òa lên khóc khiến ông phải thò tay sang vỗ nhè nhẹ lên lưng anh nói, “Đừng nhè nữa người ta cười, ngủ đi!” Hiếu liền ngủ ngay thật ngon lành, nhưng đến nửa đêm lại thức giấc trằn trọc không ngủ lại được. Ráng gợi lại nụ hôn Cầm êm đềm ngày xưa, nhưng Hiếu chỉ thấy chập chờn khuôn mặt Lan giao liên mắt lác và mùi mồ hôi của cô ta như vương vãi đâu đấy trong mùng!

Hôm sau trước khi đi lao động, cán bộ giáo dục trại đọc lệnh tha. Hiếu được lệnh cùng hai mươi lăm người còn lại trở về buồng thu dọn tư trang chuẩn bị ra về vào buổi trưa. Ông già Sửu đến gần ôm Hiếu bịn rịn nói, “Mày nói đúng bởi mày vô tội nên không thể ở chung với kẻ nặng tội như tao, thôi về vui vẻ nhé!” nói xong quay đi thì Hiếu chộp chặt tay ông run run bảo, “Tháng sau sẽ lên thăm ông, mua cho ông bánh thuốc lào hạng nhất!” Trang đội trưởng đến bên Hiếu nói, “Mày về ráng thực hiện nụ hôn thứ hai!” sau đó từng người trong đội đến bắt tay từ giã Hiếu. Người cuối cùng lại là cán bộ quản giáo Diễn. Anh ta còn rất trẻ, chỉ chừng hai mươi hai nói với Hiếu, “Chúc anh mau sớm trở thành công dân!” Hiếu liền chúc lại, “Chúc cán bộ mau chóng lên làm trại trưởng!”

Hiếu lãnh giấy ra trại và ra khỏi cổng trại giam Z30D lúc 11 giờ 45 trưa ngày 24 tháng 9 năm 1982. Đứng bên lề nhìn con đường vào trại xa thăm thẳm, Hiếu tính ra mình ở tù bảy năm hai tháng tám ngày. Hôm nay có rất nhiều xe hơi con của công an chạy ngược xuôi về hướng phân trại 2, Hiếu cùng đám bạn tù được tha chia nhau đón xe đò về Sài gòn. Một số người còn ngồi lê la uống café ở những quán trước cổng trại giam nói chuyện với các cô gái hầm than đốn củi quen biết khi đi diện rộng. Hiếu lên một chiếc xe cùng với Hùng người cùng phòng thuộc đội hai mươi bốn. Hai người ngồi cạnh nhau bên phải gần cửa sổ khoảng giữa xe. Xe đò chạy than với một bình than đỏ hồng phía sau xe thoạt trông như một bình ga. Gió thổi mạnh làm những tàn than đỏ bắn tung tóe phía sau khi xe chạy nhanh. Hùng bảo, “Nhìn những bình than xe của thập niên 1930 tôi cứ nghĩ mình là người muôn năm cũ!” Hiếu gật đầu trả lời, “Anh nói chính xác, chúng ta muôn năm cũ trở về mà!” một công an lên xe đi nhìn mặt từng người, đến Hiếu và Hùng hỏi giấy ra trại. Kiểm tra mọi người trên xe xong, viên công an mới xuống xe đến những chiếc xe đậu dài phía sau. Hùng tỏ vẻ thắc mắc hỏi Hiếu thì một phụ nữ buôn chuyến ngồi cạnh Hùng nói, “Có người trốn trại bên phân trại 2 nên công an đã ra kiểm tra xe đò ba ngày rồi. Hôm nay trùng hợp các anh được thả nên thắc mắc cũng phải.” Hiếu và Hùng ngạc nhiên, riêng Hiếu hôm qua đi lấy hom khoai tại phân trại 2 cũng không hề hay biết chuyện kinh khủng này!

Về đến Sài gòn Hiếu đến ở tạm nhà người chú họ xa trước khi về Tam Kỳ Quảng Nam trình diện. Anh cứ boăn khoăn không biết ai đã trốn từ phân trại 2? Một tháng sau Hiếu lên thăm ông già Sửu. Anh mua cho ông một bánh thuốc lào và một bánh cho Trang mời các bạn trong đội. Lúc này ông Sửu tiết lộ, “Một người tên Phan, gốc sĩ quan Biệt động quân trốn trại nghe đâu đã thoát vì cho đến hôm nay cả tháng mà chưa bắt lại được! Không chừng đã lên tàu ra nước ngoài rồi!” Hiếu nghe bàng hoàng, anh nhớ lại hôm gặp Phan nói chuyện tuy ngắn ngủi, nhưng đã cho Hiếu một hồi ức đẹp đẽ những ngày với Phác, Phan, Cung và Định. Đêm đọc thơ Đường với Phác và Cung tại Quang Trung cùng những lần uống bia với Phan tại Thủ Đức. Đấy là chiến tranh hệ lụy một thời, và kéo dài một đời trên thân thể dân tộc. Hiếu và đám bạn Phác là những người muôn năm cũ thì làm sao quên được lịch sử, dù một thời tưởng như đã lãng quên. Số phận từng người vun đắp nên số phận lịch sử bởi chính họ cũng là lịch sử. Họ là củi lửa đun nồi cháo lịch sử lúc nào cũng sôi sục bi thương phẫn hận, nhưng các thế hệ tiếp nối bao giờ cũng nếm mùi vị này một cách kiêu hãnh tự hào hết sức nghịch lý! Phải chăng đấy là điểm mơ hồ lẫn lộn giữa vai trò chứng nhân và nạn nhân của từng số phận con người trong dòng chảy lịch sử dân tộc hôm nay?

 
 

Lê Lạc Giao


____________________________________________________________
(1) Thơ Đinh Hữu Hiền (http://www.trietvan.com/dinhhuuhien/oday.htm)