Hồn Ma Biển


 
 
 

5.
Vậy là Lý Đoàn, thiếu gia đời thứ tư, cùng với nhóm người vượt biên từ bãi Cam Ranh đã may mắn sống sót, nghĩa là không bị bão tố đánh chìm tàu, hay không bị hải tặc ném xuống nước, hay không bị cá ăn, tức không chết mất xác ngoài biển. Đoàn lành lặn, nguyên vẹn từ hòn đảo tạm dung nhập cư vào nước Mỹ.

Tuy ít học nhưng lại rất chịu cày, sau mấy năm ở Mỹ, Đoàn đã có thể chắt mót gởi tiền về giúp mẹ và các em. Hồ sơ bảo lãnh mẹ cũng suông sẻ, một mình bà sang Mỹ cày phụ với con. Lúc này, trách nhiệm trông coi hương hỏa đã đương nhiên giao lại cho Lý Khanh, em trai kế của Đoàn.

Nhánh con cái nhà ông Lý Thao – đã chết vì bệnh lao - lần hồi bớt khổ. Bỏ nghề xe ôm, phụ hồ vất vả mưa nắng, họ cùng đi học nghề sửa xe hơi rồi hùn hạp mở tiệm, khấm khá hẳn lên. Còn nhánh con của ba bà dì thì vẫn tiếp tục nghèo, có thể là do không có Việt kiều giúp đỡ hay chính do lười biếng, không chịu khó làm ăn, cũng không có óc cầu tiến. Hình như những buổi nhậu chung cuối ngày, cuối tuần cho-đời-bớt-khổ không còn chan hòa tiếng cười tếu của tất cả đám thanh niên đời thứ tư này nữa. Hình như anh em - bà con cô cậu - bắt đầu nói xấu nhau sau lưng… Đã vậy, nhánh Lý Thao lại bắt đầu bốc mùi “phú quí sanh lễ nghĩa”. Hồi nào mới ngán ngẫm, miễn cưỡng mà nhận trách nhiệm thủ từ đường, nay bằng tiền bạc kiếm được chủ yếu từ xứ người, họ thay đổi tư duy, muốn khẳng định và tô điểm vai trò đầy danh dự ấy trước mặt họ hàng. Gian thờ ám tối trong nhà tổ đường được chính mấy anh em Khanh sửa sang, sơn phết lại cho sáng sủa hơn. Trên trang thờ, hình như các cụ cố, cụ nội, nhứt là cụ cố bá hộ Lý Đam, từ trong ảnh đã động đậy mà đã gật gù khen ngợi. Cũng như các cụ còn có thể cười rất tươi vào ngày giỗ mình, vì đâu còn đạm bạc, sơ sài như trước nữa. Giấy tiền vàng bạc, đô-la Âm phủ được đốt cúng nhiều hơn bội phần. Chỉ có nhánh con mấy bà dì qua ăn giỗ là không có gì để hân hoan, ngoài chuyện phải giả lã khen các em họ của mình biết lo làm tốt bổn phận thủ từ đường.

Sự phân hóa, đố kỵ ngấm ngầm, đúng hơn là sự ganh tị rất tự nhiên của kẻ nghèo đối với người giàu, giữa nội bộ con cháu đời thứ tư họ Lý đã lộ rõ. Nhưng chính thời thế xã hội mới là tác nhân ngoại cuộc gây nên hận thù trong nội bộ những người bà con cùng sống trên mảnh đất tổ tiên này. Một ngày nọ, lời đồn biến thành sự thật, chánh quyền mời dân làng Kim Bồng họp, công bố dự án giải tỏa đất làng và lấp một đoạn sông Cái để mở một con đường nhựa. Con đường nối khu vực phố nhà lầu bên kia sông,“cắn” một phần đất làng, phóng thẳng về phía khu vực cầu Hà Ra mới, Tháp Bà, Hòn Chồng.v.v…, toàn là những địa điểm du lịch đầy triển vọng. Làng ta đã chuyên trồng dừa mát mẻ, êm ả, sẽ được cải tạo thành khu du lịch sinh thái nằm hai bên lề con đường sắp mở. Cả tộc họ Lý bàng hoàng. Giá đất đang từ mấy trăm ngàn đồng từ từ nhảy lên đến một, hai triệu đồng và chắc chắn sẽ còn lên nữa. Đổi đời . Nhờ đất mà người nghèo sẽ khá lên, còn người mới giàu sẽ giàu thêm nữa.

“Dì Hai có tới mười đứa lận, Khanh à?”, tuy đang bịnh rề rề nhưng dì Hai, con gái trưởng của ông Út Mười , đã nhờ con cái dìu sang nhà từ đường, ngõ lời xin với cháu Khanh, thay quyền người cha quá cố tức ông Lý Thao, tức em trai dì Hai, mà cắt đất hương hỏa cho lại gia đình dì chừng 500 mét vuông để cất thêm nhà ở cho đám con, cháu, dâu, rễ quá đông đảo của dì. Trong niềm vui chung của dòng họ và xóm làng, và thật lòng cũng muốn giúp đỡ đám anh chị họ, Khanh đồng ý mà không cần điện thoại qua Mỹ hỏi ý mẹ và anh mình. Hai bên đang chuẩn bị đo, cắt đất để giao nhận, thì thình lình đám con dì Hai đổi ý, nói muốn 1000 mét vuông, ý là chia đủ chẵn cho 10 anh chị em nhà mình. Tức giận vì sự đổi giọng, kiểu “được thì đòi tới” của đám anh chị họ, lại bị một bà hàng xóm đờn vô thêm: “Bộ lỡ bà Hai bả có tới 20 đứa thì bây cũng phải giao tới 2000 mét?”, Khanh nói chỉ giữ lời hứa về 500 mét vuông. Và để trừng trị bọn tham đất, Khanh đưa ra điều kiện mới là: “Chỉ được ở, không được bán!”. Nội chiến. Đám con của ba bà dì đi kiện đám anh em Khanh về tội chiếm đất cộng đồng sở hữu. Đóng án phí. Mướn luật sư. Bên nhà nghèo tốn gần 10 triệu đồng, bên nhà (mới) giàu chi hết 20 triệu. Luôn luôn trong mọi vụ tranh chấp, vô số những quân sư, thầy dùi, có cả mấy ông công chức, cùng lén lút nhảy vô làm cố vấn cho các phe để trục lợi. Có một ông dượng rễ thuộc nhánh ông Tám Ân trong họ, có đất riêng tiếp giáp với lô đất đang tranh chấp, đã nửa chừng nhảy từ phe (mới) giàu sang phe nghèo mà không ai hiểu được thấu ý đồ của ông.

Toà án cho đo đất. Thì ra đất hương hỏa họ Lý rộng tới 6000 mét vuông. Lập tức anh em Khanh ra sức giăng hàng rào B40 bao quanh lô đất. Tình cờ có một vài ngôi mộ đá ong vô thừa nhận nằm ngay tuyến rào. Khanh đã dò hỏi khắp làng xóm cũng không ai biết lai lịch của những mồ mã này nên đành mướn người đào mã, hốt cốt. Có nhiều tiếng xì xào quanh đây nhưng mọi việc cũng êm thắm khi gia đình Khanh thắp nhang khấn vái mông lung rồi đưa tất cả các hủ cốt không danh tánh này vào gởi miếu ngũ hành ở sát bờ sông.

Sau đó, không rõ do điều xui khiến bí ẩn nào không rõ – có người đề quyết là do vụ đào mã - chuyện tác tệ đã xảy ra: một vụ đập lộn giữa hai dòng anh em họ. Cũng may chỉ đổ máu sơ sơ, không có anh em nào vong mạng. Hận thù đã lên ngôi. Càng nóng hơn là chuyện anh em Khanh tự ý sửa lại dãy phòng gia đình nằm ở phía sau gian thờ, gắn máy lạnh, máy nước nóng, đèn chùm… Phe con dì Hai liền báo với chính quyền đến ngăn cấm vì luật Nhà nước qui định cấm không được sửa sang, thay đổi cấu trúc của những nhà, đất đang có tranh chấp. Phe con nhà Lý Thao làm mặt lì, lén lút tiếp tục sửa nhà vào ban đêm cho đến khi hoàn tất.

Rồi không hiểu sao, tra xét nguồn gốc nhà đất như thế nào, toà án xử rằng không có chuyện chia nhà từ đường, nhánh Lý Thao đang cư ngụ trong nhà được tiếp tục quản lý nhưng không được phép bán. Còn về đất hương hỏa, vì không có văn tự di chúc cụ thể do ông Lý Đới cho riêng con trai là Lý Thao nên đây không phải là tài sản riêng của ông này, mà chỉ là ông này thay mặt anh chị em của mình đứng ra quản lý, trông coi một món tài sản chung. Còn chuyện chỉ có con trai trong dòng họ mới được nối tiếp nhau làm chủ đất hương hỏa đã là của hương hỏa thì không được chia, không được bán.v.v… chỉ là những vấn đề phong tục dân gian để lại từ thời phong kiến. Về mặt luật pháp thời nay thì chính quyền chỉ thấy đây là tài sản chung, có tính chất cộng đồng sở hữu. Chỉ cần một trong bốn người con còn sống của ông Lý Đới đòi chia, trong gia tộc không thỏa thuận được với nhau thì chính quyền sẽ đứng ra phân chia và dĩ nhiên có thu án phí. Vậy là tòa án ra phán quyết rằng 6000 mét vuông đất hương hỏa nhà họ Lý sẽ được chia làm bốn phần. Phe nhà nghèo vẫn không thắng lợi vì còn nhiều thủ tục, yêu cầu rất phức tạp. Vụ án còn liên quan đến bà vợ ông Lý Thao và Lý Đới, tức hai Việt kiều ở Mỹ - ngành nhà đất gọi là trường hợp tranh chấp tài sản có yếu tố người nước ngoài mà chỉ có toà án trung ương ở Hà Nội mới có thẩm quyền xử lý. Và tòa này còn phải thông qua bộ ngoại giao, vận dụng đến quan hệ đối ngoại giữa hai nước.v.v. và v.v… Vụ án chia đất đã bế tắc, nhứt định phải kéo dài.

Đã một thời gian dài, không chỉ riêng ở Nha Trang mà ở đều khắp các vùng thôn quê cũng như thành thị, nạn kiện tụng tranh chấp đất đai, nhà cửa đã quá nhàm. Về các vụ án dân sự, nhiều bài trên mục Ký Sự Pháp Đình của một tờ báo ở Sàigòn đã viết về chuyện cha con, anh em một nhà lôi nhau ra toà kiện đòi chia đất chia nhà. Đồ tham lam! Đồ bất hiếu!…Mới bước ra khỏi phòng xử là mẹ con cật ruột đã lập tức mắng chữi, nhục mạ nhau. Về án hình sự cũng có vô số những vụ người thân thuộc trong cùng một gia đình, cùng một dòng họ đÂm chém, lấy mạng nhau, chém luôn cả người can gián… chỉ vì mấy mét đất. Riêng về những vụ tranh chấp giữa một số người nghèo, cũng khó mà trách họ. Xưa nay chỉ có cùng khổ, chỉ có chút ít ruộng đất để kiếm sống mà không còn có bất cứ một thứ tài sản nào khác, thì trước thứ quĩ ám là giá đất thị trường, họ rất dễ mất lý trí, không còn biết phải quấy, ngay cả khi chỉ là bảo vệ nhúm đất nhỏ nhoi của mình.


6.
Run rủi là ngay giữa mùa máu thịt tương tàn, có ngày giỗ của ông bá hộ Lý Đam - các nhánh đều đồng loạt gọi là ngày cúng cơm ông cố, cụ cố.
Đang diễn ra là một đám giỗ nhà giàu. Một hai ngày trước, nhà cửa phòng ốc, nhứt là gian nhà thờ, đều được quét dọn, lau chùi hết sức sạch sẽ, tươm tất. Phía trước gian thờ, cũng chính là mặt tiền nhà từ đường, đã lâu lắm rồi mới thấy ba bộ cửa gỗ quí được mở hoác ra tất cả cho nắng gió lùa vào, xua đuổi cái mùi ẫm mốc lâu năm của những bộ ván gõ, các thứ tủ, bàn, kệ thờ, tranh liễng… vừa nặng nề vừa cổ lỗ. Theo tục phong kiến, trong ba bộ cửa lùn thấp, đầy mốt mọt ấy, bộ cửa chính giữa, cứ như một tuyến phòng ngự cố định cho gian nhà thờ đang nổi đèn nổi đóm sáng trưng giữa ban ngày, chỉ được mở hé và đóng lại lập tức khi có người lách mình vào để thắp nhang đãnh lễ. Nên nhớ là dù ngày giỗ hay ngày thường, có tục lệ là phụ nữ không được bén mãng, vô ra nhà thờ bằng bộ cửa chính giữa này. Phía sau bộ cửa bên cánh trái có một cái bàn lớn, cũng chỉ dành để đón tiếp phái nam, theo qui định nam tả nữ hữu. Khi có việc phải từ nhà dưới bước lên nhà thờ, như để bày biện mÂm quả trên kệ thờ hay phục vụ trà nước cho quí ông, đàn bà con gái trong nhà chỉ được phép ra, vào nơi bộ cửa bên phải mặt tiền nhà từ đường, hay chỉ sử dụng cái cửa hông gian nhà thờ, nối nhà trên với nhà dưới.

Một thanh niên, cháu ngoại của ông Tám, sinh sống ở Sàigòn đã lâu, nay trở về quê dự đám giỗ ông cố ngoại của mình. Dù lập tức được nghe về chuyện tranh chấp nhưng anh vẫn kiên trì ý định đi thăm cho đồng đều, đủ mặt tất cả các dì, cậu, em họ - những bà con bên nhánh ông Út Mười. Từ nhà từ đường bước ra, anh bị hàng rào B40 án ngữ, đành phải đi xa lắc xa lơ, lạc xuống bờ sông rồi vòng lên vòng xuống. Anh ta mệt mướt mồ hôi nhưng phải cố gắng lê bước , mới khỏi mang tiếng tham phú phụ bần, làm lơ bà con nghèo.

Ngày giỗ ông Lý Đam diễn ra khá náo nhiệt, nhất là nơi đám trung niên, thanh niên ngồi ở mÂm nhà dưới. Chỉ cần quét nền nhà cho sạch cát, cũng có vài tờ báo được trải ra, lót dưới những tô dĩa thức ăn, là lập tức đám con cháu các đời cấp dưới của cụ cố đã có thể biến bữa giỗ thành một bữa nhậu kéo dài. Đàn bà, con trẻ cứ ngồi chung hay bu quanh mấy ông một cách thoải mái. Dĩ nhiên, cánh phụ nữ, nhất là những cô cháu dâu, phải thỉnh thoảng liếc chừng lên nhà trên. Cái bàn ăn cao ráo dành cho các bậc trưởng thượng này có vẻ trầm mặc, nặng nề nghi lễ và ít ỏi tiếng cười nói hào hứng. Ngày nay, có lẽ do số đàn ông lớn tuổi, có vai vế trong gia tộc đã chết đi nhiều, hơn là do sự phai tàn của tục trọng nam khinh nữ phong kiến, mà trong mâm giỗ người lớn này đã được phép có mặt một, hai phụ nữ, đúng hơn là bà già, ít ra ngang hàng với ông Lý Thao quá cố, chủ trước của nhà từ đường. Hôm nay, cũng trong bàn ăn này đặc biệt còn có mặt hai người đàn ông khoảng trên dưới 50 tuổi, hơi lạ mặt. Cũng không xa lạ vì họ chính là cháu nội không được thừa nhận của cụ cố Lý Đam. Cha của hai người này, tạm gọi là ông Mười Túc, chứ không chắc có tờ khai sinh nào đề tên Lý Túc vì ông chỉ là con rơi của ông Lý Đam mà thời sinh tiền, ông bá hộ đã ngó lơ, chỉ chu cấp cho có lệ mà không hề nhìn nhận. Chờ cho đám người già lần lượt qua đời, con cháu các đời sau của họ Lý, có quyền lực nhứt là các cậu chủ nhà Lý Đới và Lý Khanh, đã tự ý giải tỏa cái thói buông bỏ máu mủ gia đình của ông cố mình mà bắt liên lạc, mời hai ông chú của mình về nhà từ đường. Thắp nhang xong trước di ảnh ông nội mình, hai người chú này chỉ ngồi một lát tại bàn nhà trên. Như không được thoải mái khi phải ngồi đối diện, chuyện trò nhạt nhẽo với những người thuộc dòng chính thất , được ghi tên rành rọt trong gia phả họ Lý, hai con người cũng mang họ Lý này cứ liếc nhìn, nghe ngóng mÂm nhà dưới. Sau cùng, lấy cớ cần nói chuyện làm ăn với cháu Lý Khanh, hai người đã xin phép rời bàn, cầm ly đi xuống nhà dưới. Phía ăn uống, vui đùa thoải mái, không câu nệ lời thưa tiếng gởi. Chính Lý Khanh, quản gia đương nhiệm nhà từ đường hương hỏa, cũng làm động tác rút lui này trước rồi. Do vai trò thủ từ đường, đương nhiên anh thuộc về mÂm giỗ của các bậc già lão ăn trên ngồi trước, dù cho anh chưa tới 30 tuổi.

“Một, hai, ba, dô!”, tiếng hò hét của đám ông, tiếng trẻ con đùa giỡn chí choé, tiếng đàn bà mắng yêu chồng và xuỵt đuổi chó đi chỗ khác. Những Âm thanh náo động ấy làm người ta nhớ lại những bữa giỗ cụ cố khi những người sống trong nhà từ đường này còn nghèo mạt. Nghèo nhưng còn đông vui hơn. Hồi đó, số người già thân thuộc hay ở chòm xóm lân cận cũng chưa qua đời nhiều quá, khiến cho những người lớn tuổi nhưng vai vế thấp cứ đến dự và ngồi dưới đất với đám thanh niên. Đồ ăn thức uống vào những ngày giỗ nghèo ấy chỉ là một bữa cơm gia đình mở rộng, nghĩa là đạm bạc, xoàng xĩnh không khác ngày thường. Nhưng số người say xĩn, quá đà lại nhiều hơn. Riêng mấy ông già có cùng một kiểu đi đám giỗ rất chân quê. Đó là cắp nách theo một chai rượu chứ không phải bánh trái, hoa quả gì. Chủ gia có nhiệm vụ đặt chai rượu cúng ông lên bàn thờ cho người chủ chai rượu thắp nhang khấn vái chút đỉnh. Rồi chai rượu lập tức được hạ thổ, đem tiêu dùng ngay khi cây nhang chưa kịp tàn. Có điều là chủ gia phải ghi nhớ và phân biệt cho kỹ mọi loại chai cũ, chai mới, chai vuông, chai nhựa…, để trả võ chai đã cạn rượu cho đúng người mang chai đến cúng. Kết quả của một trận uống chung chạ đủ thứ rượu trắng hay rượu thuốc không rõ lai lịch - chỉ biết mỗi một điều là toàn rượu dõm, rượu rẻ tiền, rượu của đám bợm nghèo – là cả đám rất mau thắm rượu mà gục ngã, ói mữa, nằm lăn lóc nhiều nơi trong nhà. Nhưng có hỗn loạn, trây trát như thế thì cả chủ lẫn khách mới công nhận là đám giỗ vui hết biết.

Trong đám giỗ thịnh soạn bữa nay , bia lon và bia chai ê hề thì cũng vui, nhưng không đông đủ cho bằng những bữa giỗ nghèo với rượu đế dõm năm nào. Không có ai thuộc nhánh ba bà dì qua dự. Họ cũng không hề đem bánh trái qua cúng. Trớ trêu là sau đó hai ngày lại là giỗ chồng dì Hai, tức ông dượng , thì nhánh bên anh em Khanh cũng đáp lễ y như vậy. Chỉ có đứa em gái út - còn độc thân nên đã được anh trai trưởng là Lý Đới bảo lãnh sang Mỹ - lén đem trái cây sang cúng dượng mình. Hỏi thì nó nói dù sao đi nữa, nó vẫn rất thương bà cô ruột đang đau ốm và rất phiền muộn.

Và mặc nhiên, anh thanh niên ở Sàigòn ra phải có mặt ở cả hai bữa giỗ, một bên giàu và một bên nghèo. Ở cả hai chiếu nhậu đều là bà con dòng họ, anh ta lấy tư thế người ngoại cuộc, không hề có quyền lợi gì dính vào vụ tranh chấp đất đai, đã tìm cách nhắc lại chuyện xưa chuyện nay, nói gần nói xa về một sự giảng hòa, nhường nhịn qua lại. Nhưng cả hai phe đều giả điếc, lạnh lùng, thản nhiên ép anh ta uống tới tấp như một cách ngắt lời, bịt miệng. Chỉ được cái là mỗi phe đều biết kềm chế, đang đám giỗ thì ngừng chữi bới, ngưng nói xấu người vắng mặt. Nhưng vẫn còn y nguyên đó cái tuyến thù hận, đối nghịch giữa hai dòng anh em họ.

Vậy mà, ở cái làng Kim Bồng này, vào thời niên thiếu của cả hai phe, chúng đã đã từng cùng nhau sống những ngày tháng rất êm đềm, hòa thuận trong khuôn đất tổ tiên. Phải nói là hạnh phúc, chan chứa thương yêu, bát ngát tiếng cười, khi cả bọn trẻ, trai cũng như gái, cùng vui đùa, nghịch ngợm. Như thi nhau leo bẻ dừa để cùng nhau uống đến no căng bụng cái thứ nước ngọt lành. Như cùng tắm truồng, bơi đua dưới sông hay lén lấy ghe của ai đó chèo qua cái doi đất giữa sông để tìm hái đọt rau ráng. Đem thứ rau hoang dã này về, chúng chui vào bất cứ nhà đứa nào còn cơm nguội trong nồi. Cứ nhanh chóng luộc rau rồi chấm nước cá kho, cùng nhau vét sạch nồi cơm là tuyệt nhất trên đời. Áo quần lôi thôi lếch thếch, mặt mũi đen đúa, ngờ nghệch, hồn nhiên thời đó của tất cả bọn chúng sao mà dễ thương lạ thường. Không đứa nào nói ra nhưng những kỷ niệm tuổi thơ rất sâu đậm ấy đã chiếm một chỗ ngọt ngào nhất trong ký ức lớn khôn của mỗi đứa.

Ngày giờ này, tóc trên đầu đã hoa râm, các gia đình riêng đã sản sinh ra cả đống trẻ con, cũng đang cùng chơi đùa, nghịch phá y như cha, chú của chúng ngày trước. Nhưng cha mẹ chúng, những anh em họ hàng – cùng series đời thứ tư của họ Lý – lại quay mặt với nhau, đánh nhau đổ máu đầu, kiện nhau ra tòa, đòi xâu xé đất hương hỏa, đất dành để thờ phượng tổ tiên. Chỉ vì đất đang có giá.

Đất hương hỏa tội nghiệp! Anh cháu từ Sàigòn ra thấy quá xót đau cho dòng tộc bên ngoại của mình. Hình như các tổ tiên hay chính cụ cố Lý Đam, người đã để lại đất hương hỏa, người mới được mọi người kính cẩn nhắc tới trong ngày giỗ của chính cụ, từ trên bàn thờ nhìn xuống vụ tranh chấp, xâu xé giữa con cháu, không còn cười nỗi… (Còn tiếp)

 
 

Phạm Nga