|
Còn nhớ vào ngày đầu tiên trên đất nước Chùa Tháp, lúc xe dừng trước chợ Kampong Thom, tuy cũng thuận lòng đưa ra tờ 1000 riels (theo tỷ giá hiện nay thì 1000 riels bằng 4000 đồng VN) nhưng tôi vẫn mơ hồ, không rõ hết lý do nào mà một đứa bé gái rách rưới, hôi hám, cứ “ấn định” số tiền này bằng mấy tiếng Việt bập bẹ “Cho xin… một ngàn ria đi”. Có lẽ là trong sinh hoạt cơm-áo-gạo-tiền của người dân Campuchea,1000 riels là trị giá tiền bạc nhỏ nhứt, không lớn lao gì nên đứa bé hy vọng là khách sẽ dễ dãi bỏ ra bố thí. Con bé đã chắp tay nói “Cám ơn” rồi bỏ tờ bạc vào cái tô nhựa trên tay một người đàn ông vừa mù vừa cụt chân. Còn ở một lối đường mòn đi vào Angkor Wat, cũng ngồi mẹp dưới đất, bảy người đàn ông khác, cũng mù hoặc cụt chân, đã im lặng trình diễn các loại đàn dây, bộ gõ… của nhạc cổ truyền Khmer. Anh Trung hướng dẫn viên cho biết đó là những thương phế binh hay thường dân bị tàn phế bởi nạn mìn, bom còn sót lại đầy rẫy trên đất nước này sau mấy cuộc chiến tranh liên lĩ. Rồi trên một bãi cỏ bên con đường ra khỏi đền Ta Prom, người ăn xin ngồi thành hàng, chắp tay trước miệng. Một bà già hom hem, mặc váy xà-rong rách tướt nhiều chỗ, cắm cúi đi lượm những vỏ chai nước mà du khách vứt bỏ.
Sáng sớm ngày thứ ba của cuộc hành trình, xe lại vội vã đi vòng về thủ đô Phnom Penh. Trong cuộc thi hằng năm của Diễn đàn Lãnh đạo thế giới phi chính phủ (NGO) với lễ phát giải vừa tổ chức tại London, thành phố Phnom Penh đã được chọn trong số 400 thành phố trên thế giới để nhận giải thưởng về môi trường. Phnom Penh cũng được ca ngợi về sự tiến bộ trong việc kiểm soát lũ lụt và rác thải. Xem ra lựa chọn của tổ chức NGO cũng khá chí lý vì so với Sài Gòn, dù không có mạng điện thoại cố định và khó tìm thấy trạm bưu điện nhưng Phnom Penh vẫn ít rác rến hơn và hay nhứt là ít ồn ào hơn (dân Campuchea không có kiểu bấm còi xe vô lối như dân VN). Ở khu trung tâm thủ đô, trên những con đường rộng rãi, nhiều cây xanh và tiểu hoa viên, lui tới toàn là chiếc xe hơi cao cấp, kiểu mới nhứt, phổ biến là hiệu Lexus. Dinh cơ, trụ sở của chánh phủ và các đảng phái là những tòa nhà kiểu… nhà chùa, nóc nhọn cao vút, mái cong theo kiểu rắn thần Naga bò ngang bò dọc. Cơ ngơi kinh doanh, trú ngụ của giới thương gia Việt kiều, Hoa kiều, Ấn kiều… thì theo kiến trúc phương Tây, sử dụng nhiều về chất liệu kính màu.
Nhưng không xa cái mẫu đô thị sạch đẹp, hoành tráng kiểu nửa cổ đại nửa tân thời, lại vừa được quốc tế trao giải thưởng về môi trường ấy, ở ngay bên kia cây cầu Bonivong dẫn vào thủ đô, chỉ thấy phần lớn là những căn nhà gạch, nhà gỗ thấp bé, hay lêu đêu, lỏng khỏng là những căn nhà sàn cột gỗ - kiểu nhà mang bản sắc riêng của vùng đất thường bị ngập lụt, nhếch nhác và chắp vá. Bộ mặt ảm đạm của vùng nông thôn – có lẽ cũng chính là vẻ mặt trung thực nhứt của đất nước Campuchea - đã áp sát vào bờ sông Tonle Sap, bị chận đứng trước dốc cầu Bonivong (người Việt thường gọi là cầu Sài Gòn) hay kẹt xe vào chiều tối. Cảnh phân liệt giàu, nghèo lồ lộ giữa hai bên bờ sông khiến tôi tưởng như đám nông dân nghèo khó của xứ sở này - ban đêm chỉ sống bằng đèn dầu hôi và đèn bình ắc-qui - đã bị cái thành phố sáng lóa đèn điện kia cấm cửa từ lâu lắm rồi. Và trên những chiếc xe đò cũ nát chở đám dân lôi thôi lếch thếch này vào thành phố kiếm sống, hành khách chen nhau ngồi đặc kín mui xe, có người ngồi cả vào ô cửa xe đã tháo kính đâu mất, nhoài cả thân người ra ngoài. Trên chiếc xe có tải trọng 15 người nhưng nhét tới 50 người này, giá vé những chỗ ngồi “phụ trội” kinh khủng ấy rẻ còn một nửa hay chỉ 2/3 mà thôi.
Từ khách sạn Tai Ming 3 sao của chủ người Hoa, chúng tôi được đưa đi tham quan Hoàng cung. Từ chánh điện thiết triều, tòa văn phòng Bộ hoàng cung cho đến tòa nhà vua Napoleon III tặng cho vua Cam-bốt xa xưa và nhứt là chùa Vàng Bạc, cũng toàn những đường nét, cổ kính, tráng lệ nhưng được cái là không hoang phế như quần thể đền Angkor trong rừng già nguyên thủy. Trong lúc những du khách nước ngoài trầm trồ trước số lượng vàng bạc, đá quí, đồng đen, ngà voi… được đem trang trí khắp chỗ thì những người dân bản xứ, nhứt là các phụ nữ lớn tuổi, chỉ lặng lẽ khấn vái, cúng tiền công đức trước những tượng Phật lớn, nhỏ đủ cở.
Nhìn một bà cụ đầu trọc, quì mọp bất động trước bệ tượng Phật ngọc bích – quốc bảo của vương triều – tôi chợt cảm nhận được một vẻ lãng đãng đặc hiệu Campuchea. Mơ mơ màng màng trong cảnh giới tâm linh huyền hoặc của tín lý đạo Phật tiểu thừa hòa trộn với ảnh hưởng đạo Bà La Môn còn cổ xưa hơn nữa, hình như người Campuchea bỏ mặc đời sống thực tế, dù cho đó chỉ là những nhu cầu, tiện nghi vật chất tối thiểu cho cái thân “ngũ uẩn”giả tạm của họ. Điển hình như khi được sống ở cái thủ đô 500 năm tuổi này, những người dân Phnom Penh - như bà cụ trước mắt tôi - chỉ muốn lựa ra mà sống với phần tâm linh còn chìm ẩn trong mọi vật thể kỳ vĩ, xa hoa mà các triều vua ngày xưa cũng như những chính phủ ngày nay muốn đưa ra làm bộ mặt trưng bày đất nước mình với thế giới qua những tấm postcard màu mè. Do đó, dù chiếm lấy những vị trí ngon lành nhứt giữa thủ đô, nhưng các sòng bạc rộng mênh mông, các tụ điểm massage và karaoke, các sân khấu của các vũ nữ xinh tươi múa Apsara dành riêng cho du khách, các cửa hiệu của các công ty đá quí hay phòng ăn bouffet cực kỳ sang trọng trong đại khách sạn Tonle Bassac, vẫn tuồng như xa lạ đối với người thị dân Campuchea. Còn ở xa khuất thủ đô Phnom Penh, hay dưới những cái bóng buồn bã, câm nín của những tòa tháp cổ ở Siem Reap, hoặc dọc theo hai bên những con đường hoang vắng đi qua hay dẫn vào các hương trấn cũ kỹ mới được gấp gáp “tân trang” ở các tỉnh toàn đồng ruộng như Svay Rieng, Kampong Cham, Can Dan…, đại đa số dân Campuchea là nông dân nghèo, đời sống không khác nhiều so với người Khmer cổ, nghĩa là chỉ có những mảnh ruộng manh múng, thường xuyên ngập úng cùng những con trâu, con dê ốm đói. Chỉ hưởng bám vào phù sa khi nước ngập rút đi nên rất họa hiếm phân bón hoá chất, hệ thống thủy lợi thì vụn vặt, vô bổ. Mỗi năm chỉ làm một mùa lúa nhưng Campuchea lại có loại gạo giống địa phương quá ngon như du khách đã thưởng thức. Tiếc rằng, có làm ra được loại gạo thơm ngon như thế thì dân Campuchea cũng đem bán phần lớn cho VN, đổi lấy thứ gạo dở hơn đem về ăn.
Cũng hình như, vào ngày cuối cùng trên đất nước nghèo khó này, tôi mới có cảm giác được tiếp cận, gần gũi hơn với người dân Campuchea qua mấy tiếng đồng hồ lục lạo trong chợ Trung tâm Phnom Penh cũ kỹ, bát nháo. Chuyện trò với những người Campuchea rành tiếng Việt và những Việt kiều đang cùng chen chúc bán buôn đủ thứ cá mắm, trái cây, vải vóc, đồ trang sức và hột đá rẻ tiền… trong chợ, tôi chợt bồi hồi nhớ lại nụ cười xuề xòa của một người bạn thân bố tôi. Hồi đó là cuối những năm 50 và đầu 60, cứ mỗi lần lái chiếc trắc-xông đen cũ mèm xuống Sài Gòn lấy hàng, bác ấy đều ghé nhà, rề rà kể chuyện buôn bán ở chợ Nam Vang. Cái thời hòa bình, êm ả trên cả hai đất nước, khiến cho hầu hết dân Việt kiều như bác ta đều đã làm ăn thuận lợi, dễ dàng với những bạn Campuchea, hơi lười biếng một chút nhưng chất phác và hiếu khách…
(Trích mục ký sự trên VTIMES TRIBUNE, California, tháng 12/2007)
|
|