|
1.
Cuối tháng 3, trời chuyển mùa nóng bức. Anh Bảy rủ tôi qua nhà anh làm bậy vài chai bia cho mát. Sau khi sai thằng con chạy mua thêm nước đá, anh vô đề chuyện thời sự, rằng mấy năm trước, công ty anh cho lãnh thêm tiền lễ 30-4 khoảng trên dưới ba trăm ngàn, thiệtt không nhiều nhặn gì so với mức lương “cứng” một triệu mốt của anh. Đã vậy, năm nay tiền lễ ấy chắc chắn còn bèo hơn nữa vì công ty đã chuyển thành công ty cổ phần, phải "liệu cơm gắp mắm" kỹ hơn thời còn bao cấp, tức thẳng tay xiết lại tất cả các khoản lương, thưởng. Nhưng vì sang năm anh Bảy nghỉ hưu nên đối với anh, tiền lễ sắp lãnh dù có bèo bọt vẫn là món bổng lộc cuối cùng của đời công nhân, sẽ ý nghĩa lắm. Anh kết luận vậy mình phải xài thiệt là có lý, có tình - đó là anh sẽ bao anh em, bạn bè một bữa rượu thiệt là "chất lượng".
Anh Bảy nói xong thì cười khục khặc. Anh vốn có thói quen hay cười, cười vài tiếng ngắn khi mở đầu một chuyện kể, cười hề hề kết thúc một nhận xét, cười ấm ứ ngưng ngang một ý kiến… Trước cái tánh cười dễ dàng như thế của anh Bảy thì ngoài trường hợp anh kể chuyện tiếu lâm, nhiều lúc tôi đã ngớ ngẩn, không hiểu nổi là anh cười về chuyện gì, vì lý do gì. Khi cười trước khi nói ra một ý kiến hay kể một câu chuyện, là anh muốn gây chú ý đối với người nghe hay tự phê phán trước về điều mình sắp nói? Khi cười kết thúc một thông báo, như vừa rồi là báo cho tôi biết sẽ đãi nhậu bằng tiền lễ, phải chăng anh cười chua chát đánh giá ý nghĩa của món tiền gọi là tiền lễ, hay anh cười như tự chế giễu cái sự “chịu chơi” đem tiền lễ nhậu hết, hoặc anh cười để trấn an tôi, cho tôi khỏi ngại chuyện anh đã nghèo mà còn tốn hao, bao biện anh em như thế?
Dù sao thì anh Bảy cũng đã vỗ vai tôi, cười nữa và nhắc trước: "Nhớ nghe, bữa 30 qua tui xỉn một bữa cho dui, khỏi si nghĩ gì cho mệt chú ơi! ".
Ông bạn vong niên, dễ mến, chất phác, cả đời chỉ sống bằng nghề lao động chân tay, lúc nào cũng ăn nói kiểu ruột để ngoài da này coi vậy mà vừa nói đúng chóc tim đen của tôi.
Nguyên là sau tháng 4 -75, trôi nổi, lưu lạc cả chục năm trời, rốt cuộc tôi về náu thân trong một xóm lao bữang gần ga Gò Vấp. Hàng xóm toàn dân nghèo, bà con kiếm sống bằng nghề làm làm mướn, bán hàng rong hay có làm cho Nhà nước cũng chỉ là công nhân quèn, bậc lương thấp. Ở khít vách tôi là anh Bảy, lớn hơn tôi vài tuổi, thợ cơ khí điện lạnh ở một công ty may bên Nhà Bè.
Ở chầu nhậu cóc, ổi sơ giao bên nhà anh Bảy, anh hỏi tôi làm nghề gì, tôi đáp vắn tắt là mình làm báo, đã nghỉ lâu rồi và chỉ còn viết lách vớ vẩn. Tôi nhớ anh Bảy đã cười, nhận xét ngay: “Chà, anh em diết báo chắc phải si nghĩ dữ lắm he? Thôi dô cái đi!”. Vô xong tua đầu, anh ân cần cầm một miếng ổi, chấm muối ớt đưa cho tôi, lại cười và hỏi câu nữa: “À quên, mình nghèo nên chỉ nhậu rượu đế hà, anh em chơi đế, rượu thuốc được hôn, mà uống khá hôn?”. Tới phiên tôi cười, đáp: “Dạ em uống rượu đế, rượu thuốc cũng quen rồi, gặp gì uống nấy anh Bảy!”. Vậy là ở ngay vòng đầu phỏng vấn lý lịch, anh Bảy đã phóng khoáng chíp bụng “kết” tôi liền mà chỉ cần thông qua hai điểm thú thật là không có gì sáng giá, một là tôi làm nghề viết, hai là tôi biết uống.
Nay sắp đến là một dịp lễ lớn, nghỉ dài ngày, thì quả là một cái dịp quá đẹp để dân biết uống, hay nhậu như tôi và anh Bảy cùng uống. Đúng hơn, đâu đó chỉ mới đầu tháng 4, có thể nói đại cũng đúng là toàn thể dân nhậu trên đất nước này đều đã cùng nhau vạch, vẽ xong xuôi kế hoạch về địa điểm, thời gian, phần hùn hạp... cho bữa nhậu nhất định tưng bừng vào ngày cuối tháng.
Thường thì, nếu có ai rỗi hơi hỏi dân nhậu uống vì lý do gì, cho điều gì, thì tất nhiên sẽ dễ dàng nghe những câu trả lời tương tự nhau, đại loại là nhậu chơi, nhậu cho vui, nhậu để xã hơi… Nhưng có điều là dịp nhậu 30 tháng 4 tới đây lại trúng vào thời điểm nhắc nhớ một biến cố lịch sử lớn lao, kết thúc một thời kỳ chiến tranh, chết chóc, đồng thời gây bao cuộc đổi đời - người thì lên, kẻ thì xuống - cho vô số thân phận. Người được thăng tiến, bỗng lộc, danh vọng đến tay, cả họ giàu lên…, nhờ biến cố này thì hả hê nhậu vui, nhậu mừng, nhậu ăn lễ chẳng hạn. Ngược lại, người bị thua thiệt, mất mát người thân, nhà cửa, nghèo mạt đi từ biến cố này thì nhậu buồn, cầm ly rượu mà ngậm ngùi, nghĩ suy, nuối tiếc dĩ vãng, tưởng nhớ người thân và bạn bè đã mất trong cuộc chiến hoặc đã bỏ nước ra đi, đăng đẳng nhiều năm rồi không gặp…
Tất nhiên, thực tế thì trong các bữa rượu kéo dài và hào hứng, cảm xúc dù bởi nhậu vui hay nhậu buồn gì rồi cũng lần hồi qua đi theo những lần xây tua hay dô trăm phần trăm liên tục. Người uống rượu chỉ còn vô tư uống cùng người khác, theo người khác, chẳng còn suy nghĩ gì nữa, hay tâm trạng gì nữa - cái từ ngồ ngộ mới xuất hiện sau này, trong cách nói, cách viết làm lơ chuẩn mực văn phạm, là cho các danh từ nhảy vô thay chỗ các tính từ/hình dung từ, như “bữa nhậu chất lượng”, “công nhân tài năng”, “nhà báo trí tuệ”, “lời lẽ tâm trạng quá!”…
Theo anh Bảy thì dân làm báo, viết lách như tôi, thế nào cũng phải suy nghĩ, thường xuyên suy nghĩ, nhậu xả xì-trét cho khỏe cái đầu cũng suy nghĩ. Riêng về cái từ suy nghĩ thì như nhiều người Nam bộ khác, anh Bảy lười cái vụ phải chu miệng, giựt hàm dưới vô, xì hơi ra để phát âm cho đúng chữ suy, cứ nói nhẹ tưng, nghe bắt cười là si. Tuy nhiên, tôi biết là anh Bảy, dù có chểnh mãng cái vụ phát âm, nhưng đúng là tình thương mến thương như giới bợm nhậu bình dân thường tâm đắc, anh lại chú ý, ái ngại dùm cho bạn bè. Thấy tôi đã trót bị cái tật si nghĩ, như thể đó một khuyết tật đầy khổ ải, thì anh Bảy – con người chơn chất, nghĩ suy đơn giản – dường như cũng có ý nể tôi chút ít nhưng tội nghiệp tôi thì chắc nhiều hơn.
Tôi đã trả lời ngay cho anh Bảy rằng, đến bữa 30 dù tôi vẫn trì độn, không lúc nào gỡ nỗi mình ra khỏi cái thói quen si nghĩ đi nữa thì bữa đó tôi cũng vẫn qua uống, vẫn vui thiệt tình với anh, không say không về.
Thì mọi năm, cũng vào mùa này, tôi chẳng đi kiếm rượu, kiểu như vô tâm có mặt ở một bữa rượu nào đó bất kỳ, để uống với bạn bè, dù ít dù nhiều, dù say dù tỉnh?
2.
Đã rõ là rất đông dân nhậu chộn rộn chú ý và tận dụng ngày cuối tháng 4 để gầy độ - tức tổ chức bữa rượu. Lại có một số ít người khác, bằng cách lặng lẽ thôi, chỉ chú ý vào ngày đầu tháng 4 – ngày giỗ Trịnh Công Sơn. Nhạc sĩ họ Trịnh vĩnh viễn rời bỏ cõi tạm - kiểu anh gọi tên cuộc đời - vào ngày 1 tháng 4 năm 2001. Cần nói thêm rằng họ Trịnh đã chết thật sự vào ngày này, chứ không phải chuyện bịa trong ngày "Cá tháng tư" của người phương Tây. Và rồi sau đó, không chờ đến đúng ngày giỗ anh hằng năm, ở Sài Gòn luôn có nhiều quán café nhạc sống và tụ điểm ca nhạc đồng loạt tổ chức những đêm nhạc chủ đề tưởng nhớ anh. Nổi bật nhất là cái hội quán nằm xa tít ở rìa đảo Thanh Đa, trong khu vực một làng du lịch sinh thái có kiểu phục chế lại khung cảnh đồng quê với nhiều cây xanh, bóng mát. Tại hội sở của những fans mến mộ TCS này có cái bảng ghi một câu nghe trúc trắc: "Nơi cất giữ những kỷ niệm về công chúng đối với nhạc sĩ TCS". Dù sao cũng nên bỏ qua chuyện-nhỏ này vì nơi đây tổ chức khá tốt về loại ca nhạc "tưởng nhớ", một dạng sinh hoạt văn nghệ rất thời thượng và ăn khách.
Lần tưởng niệm năm nào hội quán TCS cũng chơi rất gây ấn tượng. Có lần, ban tổ chức đã dặn khán giả mang theo nến, rồi may mắn gặp lúc trời ít gió, dưới khán giả chợt rực lên những ánh nến, lung linh, chập chờn, vô tình tạo nên một không gian thật huyền hoặc. Trên sân khấu thì xen lẫn vừa những câu chuyện nhắc nhớ kỷ niệm hay cảm nghĩ về người quá cố, vừa những ca khúc TCS cũ và mới (lấy mốc là tháng 4/75) bằng những giọng hát, ca sĩ cũng đủ mặt mới, cũ – trong đó có cả chất giọng rất đáng khuyến khích của một vài người Mỹ, người Âu hát tiếng Việt. Tôi nhớ là vào đêm đó, ông trời trên cao hình như cũng trầm tư theo dõi, không nỡ tuôn mưa...
Tiếc là vào một năm khác, gần đến kỳ người ta tổ chức nhạc tưởng nhớ TCS thì trời đất lại biến động vô chừng, động đất, sóng thần, bão lốc…, khiến tôi chạnh nhớ tới lời hát tuyệt đẹp "Tình yêu như cơn bão bay qua địa cầu...". Trịnh Công Sơn viết nhạc tài hoa như thế, mà thú thật, tôi rất cảm phục anh. Tôi đã tâm đắc riêng cho mình phần sáng tác nhạc tình của anh, đặc biệt tôi yêu chuộng những tình khúc có trước tháng 4/75, ngay từ cái thời sinh viên - hồi đó bọn tôi còn bày đặt tự gọi là tuổi đá buồn, sống thở trong chiến tranh, chia lìa, mất mát... Một lần, trên một đài bá âm, nhạc sĩ Phạm Duy nêu nhận xét "TCS viết nhạc tình thì nhất rồi! ". Thiển nghĩ, không chắc rằng những ca từ ít nhiều mang tính triết lý, nhất là triết Phật, đạo Thiền của TCS có được quãng đại quần chúng hiểu/hiểu hết được không, nhưng đó là những ca từ có tính văn học cao, có chất trí thức mà tác giả đã đắn đo, chọn lọc, có lúc như xuất thần, như được khải thị mà viết nên ca từ thật hòa hợp với những giai điệu đẹp đẽ, bay bỗng. Đó cũng là cái phần dung mạo nhạc TCS tự phân biệt mình với một loại nhạc thời-nào-cũng-có, từng được đề cập trong chương trình văn học-nghệ thuật phát trên đài bá âm đã nêu, có chủ đề về lịch sử âm nhạc Việt Nam cận đại và hiện đại.Tôi nhớ là khi được nhà đài phỏng vấn, hỏi nghĩ gì về loại nhạc dễ dãi, được mệnh danh là nhạc sến ấy, nhạc sĩ họ Trịnh đã nhẹ nhàng bảo chỉ nên gọi đó là nhạc đại chúng, bởi được nhiều người ưa thích.
Có một lần, tôi lục lạo ở nhà sách P.N., vùng Phú Nhuận, vì chợt muốn tìm nhạc TCS in theo kiểu tập nhạc nho nhỏ, nhẹ mỏng như thời trước 75. Tôi thất vọng não nề. Ngày nay, các loại đĩa ghi âm, ghi âm+hình cùng với loại sách in nhạc khổ lớn, bìa cứng đã ngạo nghễ đẩy dạt loại tập giấy in nhạc, in ca khúc vào bóng tối quên lãng. Trên kệ hiệu sách chỉ thấy duy nhất có cuốn "Tuyển tập những bài hát không năm tháng", nặng trịch vì khổ quá lớn và dày cộm, tái bản lần thứ tư, chứa 127 ca khúc của TCS. Còn đĩa CD, VCD nhạc họ Trịnh thì vô tư, nào là Ru Ta Ngậm Ngùi, Một Cõi Đi Về, Tình Khúc TCS - Giọng Hát Elvis Phương.v.v… Bìa, bao bì của sách nhạc, đĩa nhạc nào cũng được in rực rỡ, diêm dúa với kỹ thuật in ấn hiện đại thế kỷ 21.
Vậy mà những con nguời cũ kỹ như tôi thì lại quá lạc hậu với cái ý thích đi tìm mua những tập nhạc mỏng manh kiểu thế kỷ 20. Chẳng qua là khác với các loại sách nhạc, đĩa nhạc cao giá ngày nay, phải nâng niu, bảo quản kỹ lưỡng, loại tập nhạc đơn sơ, rẻ tiền như giấy học trò ấy cho phép tôi có được vài khoảnh giấy trắng mà phóng túng ghi nguệch ngoạc vài chữ tặng bạn bè hay ghi bừa bãi những cảm nghĩ lãng đãng cho chính mình, hay mạnh dạn gạch dưới, khoanh tròn các lời hát mà mình thích nhất. Chính với loại tập nhạc rất đáng yêu, mê nhưng không cần kính cẩn bảo quản ấy, tôi có thể thư thả lấy ghi-ta ra đàn, hát theo những dòng nhạc và ca từ tâm đắc, bằng cái giọng cây nhà lá vườn của mình, coi vậy mà đâu thua gì… giọng nhạc sĩ họ Trịnh.
Dù sao thì đối với tôi, nỗi buồn không tìm được tập nhạc TCS kiểu xưa cũ, trước 75, cũng không ray rức bằng một nỗi buồn khác, cũng liên quan đến nhạc TCS.
Sáng ngày 29 tháng 3 năm mà tôi còn nhớ chính xác là 2005, tôi đành bỏ thói quen thú vị là ngồi nhâm nhi ly café đầu ngày, để tức tốc, hối hả chạy qua Thanh Đa. Mẫu tin trên một tờ báo ghi rõ: "Vào lúc 8 giờ sáng 29/3, Hội quán TCS sẽ phát hành miễn phí 500 vé mời tham dự chương trình ca nhạc Từ khi trăng là nguyệt…, kỷ niệm 4 năm ngày mất của nhạc sĩ TCS". Do bị kẹt xe, tôi đến cổng làng du lịch lúc 8 giờ 10 và thấy hơi đông người, đã có khá nhiều xe gởi trong bãi. Anh giữ xe ngăn tôi lại: "Vô hội quán hả?Hết vé mời rồi đó nghen!" Năm trăm vé được phát hết trong vòng chưa tới 10 phút? Trong lúc tôi còn ngỡ ngàng thì trong đám những người-người-ái-mộ-TCS-nhưng-đến-trễ-mười-phút còn đang đứng lố nhố, chưa chịu ra về, đã bật ra mấy câu: "Vậy mua… vé mời ở đâu vậy?" hay "Nói là 500 vé nhưng họ thủ lại hết rồi, chỉ phát ra đại khái mấy vé cho có thôi!", hay "Hiểu ba cái vụ này quá mà! Vậy kiếm cho hai cặp vé đi, hét giá vừa vừa thôi nghe!". Từ lâu rồi, người ta đã quá quen thuộc với cái nạn hết vé hay hết những loại giấy tờ được ban phát hạn chế, xét theo tiêu chuẩn, tương tự thứ vé mời xem ca nhạc này, như: vé xe lửa, vé bóng đá, bộ đơn xin cho con vô lớp 1, bộ đơn xin học bỗng du học.v.v... Có bỏ công ăn việc làm, khổ công đi thiệt sớm mà xếp hàng, chen lấn gì đi nữa thì cũng khó có lắm! Chỉ dễ dàng khi bỏ tiền ra mua giá cao từ "cò" hay do quen biết mà thôi.
3.
Tôi nhớ vào đầu tháng 4 năm ấy, tôi đã rất không vui khi không thực hiện được ý định đi dự đêm nhạc tưởng nhớ Trịnh Công Sơn. Thật lòng mà nói, đi nghe nhạc vừa là một thú vui tao nhã, nặng mang ý nghĩa tinh thần, đơn sơ mà nhẹ nhàng, lại vừa hợp với điều kiện kinh tế của tôi nếu như kiếm được vé mời, vì ở đâu vé xem ca nhạc cũng đều rất mắc. Tiếc làm sao! Và ngày cuối tháng 4 năm ấy, tôi đã tự an ủi – ru đời đi nhé, nói theo TCS - bằng cách không gì khác hơn là hẹn với vài người bạn cũ gầy độ nhậu. Nghĩa là tôi lại ngồi ở một góc đời vừa đông vui vừa hiu quạnh, là nơi tôi có thể lặng lẽ uống rượu cùng bạn bè khít bên hang ổ si nghĩ của mình.
|
|