|
Từ khi biết ý thức, nhất là ý thức thâm sâu, thế giới và tha nhân đã mở ra cho con người như một sự đã rồi. Và lắm lúc sự đã rồi đã là điều nhục mạ con người. Không cần phải quay lại tra hỏi ý nghĩa thâm sâu của đời sống mình, và liệu có một Thượng Đế bí hiểm, tánh khí bất thường một cách khó chịu nào đó điều động định mệnh hay không, trần gian cũng đã bày ra muôn vàn vẻ mặt đọa lạc và hung dữ đâm thốc vào ý chí con người. “Chúng ta sinh ra quá muộn màng, mọi điều đã được phát biểu…” một nhà văn đã than van như thế. Hay nói theo lối triết lý, nền văn minh nhân loại – thành quả của lý trí – có thể ví như một người khổng lồ mà chúng ta, đám hậu sinh đứng trên vai hắn để nhìn xa hơn vào lịch sử.
Nhưng có đứng ở trên một vị thế cao như trên vai của văn minh, những người ý thức mới thấy rõ rệt những hố thẳm, những sa mạc chôn vùi chân tính con người và thế giới.
Zarathustra ngay bước chân đầu tiên bước xuống thế gian - những thung lũng, những làng mạc có đám dân làng sống lấy những mối bận tâm trần gian, bằng một đời sống đã xảy ra như thể đã tựu thành hoàn tất – đã lần lẫn trong thiện chí của mình. Mệnh số của nhà tiên tri nhất thiết đã là kẻ lỗi thời ngay bên cạnh những người cùng thời đại. Đã bằng thật nhiều ngạo nghễ, chế diễu, phẫn nộ, và cả nước mắt, Zarathustra truyền đạt điều mình muốn truyền đạt nhưng hầu như trần gian đã quá chật chội, không còn một chỗ trống nào cho những lời nói mới mẻ. Trần gian không còn chỗ nào cho chân tính của thực tại. Nếu có vấn đề được đặt ra, người ta chỉ còn tự hỏi tại sao đến giờ phút này còn có kẻ còn muốn thưa thốt, đề nghị.
Tại sao còn có những triết lý mới trong khi người ta đã có một QUÁ KHỨ đã cung cấp đầy đủ những câu giải đáp cho mọi vấn đề?
Zarathustra định rao giảng khả tính con người – dù là loại khả tính siêu việt nhất – nơi một chỗ không còn con người là trần gian, theo nghĩa không còn ai đặt vấn đề. Và con người sau cùng của nhân loại đó là đám tiện dân.
Đám tiện dân đã có quá đủ. Nào là:
Hư vô chủ nghĩa giúp việc hoàn hảo cho nỗi an tâm trần thế bằng muôn ngàn vẻ mặt. Những bậc hiền triết đi rao giảng giá trị cao quý của giấc ngủ. Vị khác dạy về khí hậu đầm ấm của cõi bên kia, nơi có một Thượng Đế nghiêm trang nhưng thật tốt bụng, chăn dắt linh hồn con người. Vị khác kêu gọi sự khinh miệt thân xác để chóng giải thoát được linh hồn vốn dĩ èo uột võ vàng. Và cũng có một số tiện dân học được tâm thức hư vô cao nhất (trầm trọng nhất): khước từ đời sống.
Đó là một đại lược về những giường êm, nệm ấm mà những hiền triết đã dành sẵn cho những thao thức siêu hình mà lắm lúc bọn tiện dân đã tự mắng chửi rằng còn phải ưu tư gì một khi chính sự ưu tư đã kiếm được một chỗ ăn ở vô cùng dễ chịu (bien être).
Bước sang một lãnh vực khác của đời sống – hay chính đời sống, với những con người còn cử động, làm việc, đi lại ở một nơi gọi là xã hội – lãnh vực của chân lý và đạo đức, có gì lạ trước mắt Zarathustra?
Xin mời bước ra công trường để nhìn mặt những người đạo hạnh (les vertueux), con người công chính (les justes), con người tao nhã (les nobles), con người lương thiện ( les bons)… Đây là những kẻ an tâm nhất về những danh hiệu mà bằng một cách nào đó xã hội đã gắn thêm vào vẻ đạo mạo, vẻ bất động hoàn hảo của họ. Ghê gớm nhất là bọn người đạo hạnh. “Cũng còn có những kẻ khác ngồi xổm trong đám lầy của họ giữa những thân lau sậy, và bảo: “Đức hạnh, chính là cứ ngồi im trong ao đầm lầy lội. Chúng tôi không cắn tới ai, và chúng tôi cũng tránh kẻ muốn cắn xé; về tất cả mọi sự, chúng tôi chia sẻ ý kiến mà thiên hạ đưa ra cho chúng tôi.” (Ainsi parlait Zarathustra. Bản dịch của Maurice Betz, p.111-112).
Tất cả những cảnh tượng con người nói trên đã lắm lúc đuổi trả Zarathustra về với hang động, bờ biển, đảo vắng xa xăm.. Zarathustra thối lui về với niềm cô đơn của mình thay vì đã chịu cô đơn quá lâu giữa công trường huyên náo.
Tất cả những-sự-đã-rồi của Quá Khứ u tối vì đã thành tựu với đủ món trang điểm cho mọi mặt đạo đức, triết lý, đời sống xã hội của con người.
Như thế, có phải Ý chí Cường lực (la Volonté de Puissance) đảo lộn mọi giá trị (Umwertung derwerte) của Nietzsche đặt vào tay con người đã chỉ là một cố gắng tuyệt vọng?
*
* *
Để trả lời câu hỏi đó, xin trở lại với tiến trình suy tưởng của chính triết gia.
Nietzsche đã sáng tạo tác phẩm Ainsi parlait Zarathustra trong một nghịch lý thâm sâu. Chính trong nghịch lý, ông đã thai nghén ra một tác phẩm mà về tên gọi của nó ông cũng phân vân, như ông viết trong bức thư cho nhà xuất bản: “Đây là một bài thơ, một cuốn Phúc Âm thứ năm, một điều mới lạ tuyệt đỉnh chưa có tên gọi.”
Nghịch lý đầu tiên là về mặt sinh thành, Nietzsche đã không sử dụng nhân vật Zarathustra mà thực tế triết gia đã chịu một hóa thân. Nhà tiên tri Ba Tư Zarathustra đã hóa thể trong Nietzsche đồng lúc mang cái bầu khí sẵn có của lịch sử (bao hàm những ý tứ, văn ảnh, ngôn ngữ của nước Ba Tư như một giai đoạn nhất định cung cấp cho ngòi bút người viết những dữ kiện nhất định) trộn lẫn với bầu khí của văn hóa học thuật Đức quốc hậu bán thế kỷ 19. Đó là sự trộn lẫn hai hình ảnh đồng loạt chở đầy tình cảm của triết gia và là hai tình cảm kình địch: Nietzsche yêu tâm thức người Ba Tư biết quan niệm mỗi giai đoạn tiến hóa được tiên báo bằng những nhà tiên tri (như Zarathustra là một) bao nhiêu thì càng ghét tinh thần triết học duy-lý-niệm của Đức quốc thời đó bấy nhiêu (đưa đến chỗ Nietzsche chán ngán chính dân tộc Đức - điều này được nói rõ trong tập Ecce Homo).
Có lẽ do mối tương phản về tình cảm nói trên trong tác phẩm, triết gia đã chọn thi ca làm bộ mặt của thị kiến nội tâm. Và trong thiên trường thi, Zarathustra, nhân vật chính đã chỉ phát ngôn bằng ẩn ngữ, mật ngữ. Và mọi thứ ẩn mật đó chính là tự ngôn (prologue) của Zarathustra. Luôn luôn, mảnh đất của ẩn ngữ - nhất là ẩn ngữ thi ca – là một cõi bờ không thể đáo cùng.
Nietzsche là một nhà thơ – nhà thơ bí hiểm? Phải nói là tất định có một loại thi ca được dùng tới như vạn đại chưa hề có thi ca, quá khứ chưa hề có thi ca để chuyên chở ẩn ngữ. Và chính ẩn ngữ được Zarathustra nói ra như thị kiến (nơi trí tuệ được biến thành tư tưởng) như số kiếp ngôn ngữ phải hiện thể trong cõi trần gian còn vô thanh bất động. Các nhà học giả thích ví von thiên trường thi của Nietzsche bằng những chiều cao (của núi, của mây) và chiều sâu ( của hố thẳm) như thế có thể không-gian-hóa những ẩn ngữ của Zarathustra. Đây cũng là cố gắng miệt mài của đám thi sĩ mà Zarathustra đã phàn nàn về họ. “Tư tưởng của chúng (đám thi sĩ) không thâm nhập đủ sâu, chính vì tình cảm chúng không xuống đến tận những hố thẳm.” Ẩn ngữ còn là hiện thể bi đát của ngôn ngữ đáng lẽ được giữ lại trong im lặng, vùi chôn trong câm nín. Ẩn ngữ khai sinh trong sự tuyệt vọng của hi vọng được thấu hiểu. Ẩn ngữ là hóa thân cay đắng của tư tưởng hiển thể nhô lên trong bóng tối của nỗi tuyệt vọng về sự bất lực của khả năng truyền đạt thị kiến.
Và đến nay ẩn ngữ Zarathustra chính là nghịch lý trong tâm thức Nietzsche.
Một ít về lịch sử cho biết Nietzsche đã khởi phát - bằng chịu đựng thống khổ nhất - trực giác về sự Phục Diễn Bất tận (le retour éternel) tại Surley tháng 8/1881. Và tuy mang lấy ám ảnh của biến cố này, Nietzsche đã vẫn viết xong phần thứ ba của tác phẩm Ainsi parlait Zarathustra vào tháng 01/1884 trong đó mang một chương quan trọng nhất: “Về những bảng giá trị cũ và mới” (Des vieilles et des nouvelles tables, p.226, bản dịch Pháp Văn của Maurice Betz).
Phải chăng Nietzsche đã lướt trên nghịch lý giữa hai suy tưởng đối nghịch về “Phục Diễn Bất tận” và “Đảo lộn mọi giá trị” để viết ra phần 3 nói trên?
Trên giả định có sự tương xung tương khắc giữa hai suy tưởng đó, ta thấy thêm một điều là ở ngay đầu phần 3 này, vị trí của các chương phát huy thị kiến về sự Phục Diễn Bất tận (như chương “Về thị kiến và ẩn ngữ” cùng với “Bằng sự thông qua” được viết với hình thức độc thoại ở các trang 181-204 bản dịch M. Betz) được đặt ngay cạnh chương “Về những bảng giá trị cũ và mới” ở cuối. Đó cũng là một ẩn số về trình tự (cố ý hay vô tình) của toàn bộ tác phẩm.
Thêm một điều là suy tưởng về “Ý chí cường lực” (La volonté de puissance) mật thiết gắn liền với suy tưởng “Sự đảo lộn mọi giá trị.” Có thể xem hai thị kiến trên là cánh tay phải và cánh tay trái của người chiến sĩ triết lý: Siêu nhân (Surhomme), và Siêu nhân dấn thân vào cuộc chiến khốc liệt với Định mệnh, với Chân lý tất mệnh của vũ trụ và con người: Nhịp phục diễn bất tận. Nietzsche đã triết lý trong thế giới những vị thế phản lập.
Nghi vấn sau cùng là phải chăng đã có sự giảng hòa tối thượng giữa con người Siêu nhân và sự Phục diễn định mệnh nên tác phẩm đã thành hình trọn vẹn trên sự sụp đổ sau cùng của nghịch lý?
*
* *
Thật sự có cuộc chiến giữa một bên là con người Siêu nhân kêu gào đảo lộn mọi giá trị và một bên là Định mệnh phục diễn, quy hồi. Ở nhiều chỗ, Nietzsche còn nhìn tất mệnh như chính Quá Khứ bằng bộ mặt tựu thành của nó (triết học duy-lý-niệm, đức tin Ky tô giáo, hư vô chủ nghĩa v..v..) đã sản sinh xã hội con người bấy giờ (đức tin, các giá trị đạo đức, các chân lý vĩnh cửu..) Như đã trình bày ở phần đầu, đó là một trần gian mạt hậu đến nỗi Zarathustra đã kêu gào phải siêu vượt con người vì: “Toàn diện đời sống là trộm cắp, sát nhân” (trang.223, bản dịch M. Betz).
Tuy nhiên, song song với việc vạch mặt và đạp đổ những thực tại trì độn của chân lý, đạo đức cũ, luôn luôn Zarathustra thuyết giảng cho đám tiện dân sự sáng tạo mới với đầy đủ chân nghĩa nghiêm khắc nhất của Sáng tạo: “Kẻ sáng tạo là kẻ ban cho loài người một mục đích ban cho mặt đất ý nghĩa và tương lai: chỉ kẻ sáng tạo mới sáng tạo nên Thiện ác vạn sự.” (trang 227, M. Betz)
Chính Nietzsche cũng thú nhận ngay trong bản thân mình mang vận hành nhịp đôi này: “Đồng lúc tôi vừa là một kẻ suy vận vừa là một cái gì nguyên khởi bắt đầu, chính điều này, hơn hết, giải thích tính chất trung lập của đời sống tôi (…). Tôi có được một thứ cảm giác bén nhạy biết đánh hơi, biết ngửi ra những thứ dấu hiệu về sự cất cánh bay cao và việc suy đồi rơi rụng.” (Ecce Homo, bản dịch của Phạm công Thiện).
Như đã tuyên xưng triết lý bằng cây búa, bằng cốt mìn, công việc phá đổ (nhịp một của vận hành) của Nietzsche bao giờ cũng mãnh liệt qua bước chân của Zarathustra xuyên vượt những công trường, những giảng đàn, những non cao bể thẳm là những nơi tập hợp của đám tiện dân. Hay đúng hơn, mũi nhọn của Zarathustra hướng thẳng vào sự tựu thành ù lì của Quá Khứ đã tường đồng vách sắt bày ra bằng những nỗi an tâm yên ngủ của con người. Đứng trước những đức lý cũ kỹ cố định, Zarathustra đã thông tri bằng khẳng định: “Mọi sự đều trôi chảy” khiến đám tiện dân đã kêu ầm lên: “Sao! mọi sự đều trôi chảy à? Bộ những tấm ván và lan can cầu không bắc qua sông đó sao? Ở bên trên con sông, mọi sự đều vững chãi, những giá trị của vạn vật, những chiếc cầu, những khái niệm, tất cả Thiện và Ác, tất cả mọi thứ đều rắn chắc, vững chãi!” (trang 232).
Đó chính là sự sợ hãi bị vỡ mất niềm an tâm dễ chịu của đám hạ dân trên giòng sông Biến Dịch mà Nietzsche muốn in dấu Tính thể. Đám tiện dân chỉ quen tin mọi sự đều là Định Mệnh “Mi phải, bởi vì phải như thế” trong khi Ý chí sáng tạo dành lại mọi quyết định cho con người:
“Giải thoát quá khứ nơi con người, và biến đổi tất cả những gì đã xảy ra cho đến khi nào ý chí lên tiếng: “Chính ta đã muốn nó xảy ra như thế! Đấy chính là điều ta sẽ ước muốn thêm lần nữa.” (trang 229).
Công việc giải thoát quá khứ chính là cứu chuộc sự ngẫu nhiên để sáng tạo tương lai và chính là giải thoát con người (trang 229). Công việc giải thoát con người ra khỏi Quá Khứ không phải chỉ là công việc nhất thời cho hiện sinh ở đây và bây giờ; nó còn cấp thiết cho toàn bộ thực tại con người đong đưa giữa hai cõi vô hình và hữu hình. “Linh hồn đang hiện thể, lao thẳng vào biến dịch, ước muốn đi vào ý chí và ước vọng” (trang 241) và chính xã hội con người là một tìm kiếm trường kỳ (trang 245).
*
* *
Thượng Đế đã chết, con người bơ vơ với tự do còn lại của mình, chẳng biết dùng Thời gian đã được trao trả lại cho mình để làm gì. Chân lý bị ám sát để trống chỗ cho con người rao giảng tất cả những gì phản lập và thù nghịch với cuộc sống, nghĩa là rao giảng sự chết (trang 233)… Một cảnh tượng thảm thiết như thế đã bày ra trước mắt nhà tiên tri. Như thế giải pháp cứu chuộc con người phải như thế nào và phải bắt đầu từ đâu?
Không có gì khác hơn là hy vọng. Zarathustra đã đưa ra nhận định cuối cùng cho Quá Khứ (như thể hiện tại chính là bộ mặt của Quá Khứ): “Lòng thương hại của ta đối với tất cả Quá Khứ đã biểu lộ ra như thế: ta xem Quá Khứ như bị bỏ rơi” (trang 233). Và những đứa con của Zarathustra được nhắc nhở rất nhiều lần trong tác phẩm chính là biểu tượng cho những hy vọng của Nietzsche đặt vào một loài người mới, một dân tộc mới:
“Ta muốn, nhờ các con ta, chuộc lại tội đã làm của ông cha ta: ta muốn cứu chuộc hiện tại này bằng toàn thể tương lai” (bản dịch của Maurice Betz).
Chính trong lời nói ngậm ngùi này của Zarathustra cho thấy rõ tâm tình bi đát của con người – con người hấp hối và bất lực – Vì lỡ đã đeo mang Quá Khứ, Lịch sử. Cái tội-lỗi-có-quá-khứ (tội đã làm con của cha ông ta – Zarathustra nhắc lại) phải được cứu chuộc. Chính tương lai cũng phải được cứu chuộc.
Trong vòng biến dịch của sự Phục Diễn Vĩnh cửu không có một tương lai lạ mặt, mới mẻ nào đến với vũ trụ và con người. Cũng chính những gì xảy ra hôm nay đã xuất hiện trong Quá Khứ và sẽ còn xuất hiện trong Tương Lai. Hãy nghe lời của Zarathustra nói với tên lùn tượng trưng cho lý trí trì độn:
“Mọi sự há chẳng vương vấn tương liên với nhau cho đến nỗi cái khoảnh khắc hiện tại này đang lôi kéo theo sau mình tất cả những sự việc tương lai? Và như thế lôi kéo theo cả chính mình (…) Chúng ta há chẳng phải quy hồi và chạy trở lại một lần nữa trên con đường (tương lai) trước mắt đang phóng lên cao – há chẳng phải chúng ta phải vĩnh viễn quy hồi trầm luân trở lại?” (trang 184)
Kỳ cùng, Zarathustra đã cúi đầu nói một tiếng “Vâng” thuận mệnh.
“Chớ gì ta là một bốc sư đầy óc tiên tri đang bước đi trên một triền núi cao giữa hai vùng biển (…) sẵn sàng loé lên ánh chớp giữa vùng đêm tối, sẵn sàng nhoáng lên tia sáng giải thoát, chất chứa đầy những lằn chớp khẳng định xác ngôn, những lằn chớp cười vang tiếng Vâng thuận mệnh!”
Từ đây con người chấp nhận một chỗ ngồi trong Định Mệnh vạn đại và sẽ sống kiếp nhân sinh theo đúng luật Biến dịch phản phục vĩnh cửu. Con người được giải thoát khỏi Quá Khứ, khỏi thần Atlas được cất khỏi vai quả Càn Khôn nặng chĩu. Và đặc biệt nhất là trong phần định mệnh con người “linh ư vạn vật”, động trạng tiến bộ từ con người đến Siêu nhân, giá trị nhân sinh cũ đổi thành giá trị nhân sinh mới, nhất thiết là cố gắng của con người miễn không ra ngoài lề luật của vũ trụ là Quy hồi Vĩnh cửu bất tận. Nghĩa là dù có vừa phá đổ vừa xây dựng theo vận hành nhịp đôi hết sức thông minh của trí năng, đó cũng chỉ là con người đặt vấn đề với nhau. Và trên hết mọi vấn đề là hy vọng.
*
* *
Phải chăng đến đây là cuộc thánh chiến giữa Con người và Tất mệnh đã chấm dứt?
Phải chăng đến đây mọi nghịch lý đã được siêu vượt, giảng hòa trong tư tưởng Nietzsche?
Và sau cùng, mặc dù Thượng Đế đã chết từ lâu, con người đặt vấn đề con người với con người là suy tư cốt tử của triết học Hiện sinh sẽ nhất thiết ra đời như số kiếp của lịch sử triết học Tây phương./.
Tập san Nghiên Cứu triết Học số 5, tháng 10 và 11- Năm 1972 - Đại học Văn Khoa
|
|