thơ Vãn Đường

Đường Đi Khó

Quán Hưu

 
 
 

Quán Hưu (823-912), tục danh họ Khương, tự Đức Ẩn, người gốc Lan Cốc, Nhữ Châu; có thuyết cho rằng người gốc huyện Tiến Hiền, Giang Tây, là nhà sư nổi tiếng về thi họa cuối đời Đường, thời Ngũ Đại. Năm bảy tuổi xuất gia vào chùa Hoà An ở Lan Khê xin làm thị giả (người hầu) cho Thiền Sư Viên Trinh. Quán Hưu có trí nhớ rất tốt, mỗi ngày tụng một ngàn chữ trong Kinh Pháp Hoa, chỉ cần qua mắt là không quên. Quán Hưu thích ngâm thơ, thường cùng các vị tăng cách hàng rào bàn luận thơ ca, hay ngâm nga tìm tòi các câu đối, hoặc người xướng kẻ họa, mọi người thấy đều cho rằng lạ. Sau khi Quán Hưu thọ giới làm tăng, thi danh mỗi ngày một nổi, hết thảy gần xa đều biết. Năm Kiền Hóa thứ 2 (915) mất tại nơi ở, thọ 89 tuổi.

行 路 難
Hành lộ nan

君 不 見 山 高 海 深 人 不 測,
Quân bất kiến cao sơn hải thâm nhân bất trắc,
古 往 今 來 轉 青 碧。
Cổ vãng kim lai chuyển thanh bích.
淺 近 輕 浮 莫 與 交,
Thiển cận khinh phù mạc dữ giao,
地 卑 只 解 生 荊 棘。
Địa ti chỉ giải sinh kinh cức.
誰 道 黃 金 如 糞 土,
Thùy đạo hoàng kim như phấn thổ,
張 耳 陳 餘 斷 消 息。
Trương Nhĩ Trần Dư đoạn tiêu tức.
行 路 難,行 路 難,君 自 看。
Hành lộ nan, hành lộ nan, quân tự khan.
不 會 當 時 作 天 地,
Bất hội đương thời tác thiên địa,
剛 有 多 般 愚 與 智。
Cang hữu đa ban ngu dữ trí.
到 頭 還 用 真 宰 心,
Đáo đầu hoàn dụng chân tể tâm,
何 如 上 下 皆 清 氣。
Hà như thượng hạ giai thanh khí.
大 道 冥 冥 不 知 處,
Đại đạo minh minh bất tri xứ,
那 堪 頓 得 羲 和 轡。
Na kham đốn đắc Nghi Hoà dự.
義 不 義 兮 仁 不 仁,
Nghĩa bất nghĩa hề nhân bất nhân
擬 學 長 生 更 容 易。
Nghĩ học trường sinh cánh dung dị.
負 心 爲 壚 復 爲 火,
Phụ tâm vi lô phục vi hoả,
緣 木 求 魚 應 且 止。
Duyên mộc cầu ngư ưng thả chỉ.
君 不 見 燒 金 煉 石 古 帝 王,
Quân bất kiến thiêu kim luyện ngọc cổ đế vương,
鬼 火 熒 熒 白 楊 裏。
Quỷ hoả huỳnh huỳnh bạch dương lý.
君 不 見 道 傍 廢 井 生 古 木,
Quân bất kiến đạo bàng phế tỉnh sinh cổ mộc,
本 是 驕 奢 貴 人 屋。
Bản thị kiêu xa quý nhân ốc.
幾 度 美 人 照 影 來,
Kỷ độ mỹ nhân chiếu kính lai
素 綆 銀 瓶 濯 纖 玉。
Tố cảnh ngân bình trạo tiêm ngọc
雲 飛 雨 散 今 如 此,
Vân phi vũ tán diệc như thử
沸 渭 笙 歌 君 莫 誇,
Phất vị sênh ca quân mạc khoa,
不 應 常 是 西 家 哭。
Bất ưng thường thị tây gia khốc.
休 說 遺 編 行 者 幾,
Hưu thuyết di biên hành giả kỷ
至 竟 終 須 合 天 理。
Chí cánh chung tu hợp thiên lý.
敗 他 成 此 亦 何 功,
Bại tha thành thử diệc hà công,
蘇 張 終 作 多 言 鬼。
Tô Trương chung tác đa ngôn quỷ.
行 路 難,行 路 難,不 在 羊 腸 裏
Hành lộ nan, hành lộ nan, bất tại dương trường lý
九 有 茫 茫 共 堯 日,
Cửu hữu mang mang cộng hiểu nhật,
浪 死 虛 生 亦 非 一。
Lãng tử hư sinh diệc phi nhất
清 淨 玄 音 竟 不 聞,
Thanh tịnh huyền âm cánh bất văn,
花 眼 酒 腸 暗 如 漆。
Hoa nhỡn tửu trường ám như tất
或 偶 因 片 言 隻 字 登 第 光 二 親。
Hoặc ngẫu nhân phiến ngôn chích tự đăng đệ quang nhị thân,
又 不 能 獻 可 替 否 航 要 津。
Hựu bất năng hiến khả tán phủ hàng yếu tân
口 譚 羲 軒 與 周 孔,
Khẩu đàm Hi Hiên dữ Chu Khổng,
履 行 不 及 屠 沽 人。
Lý hành bất cập đồ cổ nhân.
行 路 難,行 路 難,日 暮 途 遠 空 悲 嘆。
Hành lộ nan, hành lộ nan, nhật mộ đồ viễn không bi thán.
君 不 見 道 傍 樹 有 寄 生 枝,
Quân bất kiến bàng thụ hữu ký sinh chi,
青 青 鬱 郁 同 榮 衰。
Thanh thanh uất úc đồng hưng suy,
無 情 之 物 尚 如 此,
Vô tình chi vật diệc như thử,
爲 人 不 及 還 堪 悲。
Vi nhân bất cập hoàn kham bi.
父 歸 墳 兮 未 朝 夕,
Phụ quy phần hề vị triêu tịch,
已 分 黃 金 爭 田 宅。
Dĩ phân hoàng kim tranh điền trạch.
高 堂 老 母 頭 似 霜,
Cao đường lão mẫu đầu tự sương,
心 作 數 支 淚 常 滴。
Tâm tác số chi lệ thường trích.
我 聞 忽 如 負 芒 刺,
Ngã văn hốt như phụ mang thích,
不 獨 爲 君 空 嘆 息。
Bất độc vi quân không thán tức,
古 人 尺 布 猶 可 縫,
Cổ nhân xích bố do khả phùng
潯 陽 義 犬 令 人 憶。
Tầm dương nghĩa khuyển linh nhân ức.
寄 言 世 上 爲 人 子,
Ký ngôn thế thượng vi nhân tử,
孝 義 團 圓 莫 如 此。
Hiếu nghĩa đoàn viên mạc như thử.
若 如 此,不 遄 死 兮 更 何 俟。
Nhược như thử, bất thuyên tử hề cánh khả sĩ.

Đường đi khó
Quán Hưu (Vãn Đường)

Anh chẳng thấy:
Núi cao biển sâu người khó dò
Xưa nay hết xanh rồi đổi biếc
Cạn cợt nông nổi đừng giao du
Gai cỏ mọc nhiều nơi đất thấp
Ai nói vàng ròng như bụi bẩn?
Trương Nhĩ, Trần Dư tình nghĩa dứt (1)
Đường đi khó, đường đi khó, anh cứ nhìn
Chẳng thấy ngay trong trời đất này
Có biết bao người ngu với trí
Rốt cùng vẫn sống bằng chân tâm
Chi bằng trên dưới cùng thanh khí
Đạo lớn mờ mờ tìm chỗ nào?
Bỗng dưng được cầm cương Nghi Hòa (2)
Còn kể chi đến điều nhân nghĩa
Tưởng học trường sinh dễ biết bao
Dối mình xây lò lại đốt lửa
Trèo cây mò cá! thôi ngưng nào
Anh chẳng thấy:
Vua chúa xưa đốt vàng luyện đá
Thôn Bạch Dương hừng lửa năm nao (3)

Anh chẳng thấy:
Cây già bên giếng lạn ven đường,
Vốn xưa nhà kiêu sa quý tộc
Thuở nào người đẹp đứng soi gương
Dây lụa bình bạc khoe tay ngọc
Bây giờ mưa tạnh với mây tan
Rèm thêu rường chạm thành hoang ốc
Khoe chi đàn ca tiếng vang trời
Đâu đây chừng có nhà đang khóc
Mấy ai theo được sách thánh hiền
Nên hợp lẽ trời đến chung cuộc
Phá đây dựng đó có công gì
Tô Trương rốt làm quỷ nói dóc (4)
Đường đi khó, đường đi khó,
chẳng tại chỗ ngoằn ngoèo
Mênh mang mọi loài chung vầng nhật
Lãng tử sống thừa chẳng một người
Lời hay ý đẹp rốt chẳng nghe
Đắm sắc say hương lòng như mực (5)
Hoặc may nhờ dăm chữ đôi câu đỗ đạt vinh cha mẹ
Vì đồng lương lại chẳng dám bày mưu khuyên can
Miệng bàn Hi Hiên với Chu Khổng (6)
Chân đi chẳng bằng người hàng buôn (7)
Đường đi khó, đường đi khó,
ngày hết đường xa than chẳng cùng

Anh chẳng thấy:
Cây ven đường có cành tầm gởi
Cùng xanh ngăn ngắt cùng khô vàng
Đến vật vô tình còn như vậy
Làm người không bằng đáng buồn thay
Cha vừa mới mất chưa trọn ngày
Đã chia của cải dành nhà đất
Mẹ già tuổi cao tóc như sương
Lòng chia mấy mối thường khóc ngất
Nghe chuyện bỗng như gai nhọn đâm
Chẳng vì riêng anh mà than tức
Thước vải người xưa chia nhau may (8)
Nghĩa khuyển Tầm dương còn hồi ức (9)
Mang tiếng làm con ở trên đời
Hiếu nghĩa vuông tròn sao chẳng vẹn
Nếu như thế
Không chết sớm đi cho đỡ thẹn

Phan Nhật Tân dịch

_________________________________________________________________________
1. Trương Nhĩ, Trần Dư từng kết nghĩa và sát cánh chống nhà Tần. Sau có sự ngộ nhận giữa hai người, nhân Lưu Bang phong Trương Nhĩ tước công, Trần Nhĩ tước hầu mà hai người tuyệt giao.
2. Nghi Hoà là thần mặt trời cưỡi xe trong thần thoại cổ Trung Hoa.
3. Thôn Bạch Dương thuộc tỉnh Cam Túc.
4. Tô Trương: Tô Tần, Trương Nghi hai nhà thuyết khách thời Chiến Quốc.
5. Hoa nhãn tửu trường: mắt hay nhìn sắc đẹp, miệng hay uống rượu.
6. Hi Hiên Chu Khổng: Phục Hi, Hiên Viên, Chu Công, Khổng Tử các thánh nhân của Trung Hoa.
7. đồ cổ: người giết heo, người bán rượu.
8. Hán Văn Đế Lưu Hằng đày em Lưu Trường vào đất Xuyên, dân gian làm vè chế nhạo.
9. Lý Tín uống rượu say ngủ, nhà bị cháy, con chó giữ nhà nhảy xuống nước nhúng ướt lông để che cho chủ khỏi bị lửa táp. Lý Tín thoát chết, nhưng con chó không qua khỏi. (Tích khác chép Nang dương.)