|
Dẫn
Lyotard, Gaarder, Hösle là những người mơ ước giải những vấn đề triết học với trẻ thơ: Lyotard viết Le Postmoderne expliqué aux enfants/Giải thích hậu hiện đại cho trẻ thơ, Gaarder viết Sofies verden/Thế giới của Sofie, Hösle viết Das Café der toten Philosophen: Ein philosophischer Briefwechsel für Kinder und Erwachsene/Quán cà phê của những triết gia đã chết: Một trao đổi thư tín cho trẻ em và người lớn.
Thế giới của Sofie
Trong tiểu thuyết của Gaarder, Sofie Amundsen có một thế giới riêng với triết gia Alberto Knox: một ngày kia khi tan học về, Sofie nhận liên tiếp hai bao thư lạ gửi cho cô, mỗi thư một câu hỏi -
bạn là ai?
thế giới đến từ đâu?
Rồi một bưu thiếp gửi cho “Hilde Møller Knag” - nhờ Sofie nhận chuyển, mừng sinh nhật thứ mười lăm!
Hilde là ai?
Hilde có liên quan gì đến một nữ triết gia trong lịch sử tư tưởng tên gọi Hildegard von Bingen? Sofie có làm ta liên tưởng đến ΣοΦια - tiếng hy lạp, có nghĩa là minh trí? Alberto Knox/Knag có liên hệ gì đến Albertus Magnus là người thày triết học của triết gia Aquinas?
Song trước hết, Hilde là người thứ ba - tức tha nhân, bởi nếu không có tha nhân, cần gì tới triết học? Song đôi lúc, rõ ràng Hilde là Sofie, có phải để nhắc nhở đến alter ego, tức cùng là một?
Alberto đi qua suốt dòng lịch sử triết học phương tây - như một người bất tử (hãy tưởng tượng chứng nhân của lịch sử, điều này một nhà văn trước Gaarder là Simone de Beauvoir đã từng hư cấu nhân vật bất tử qua các thời đại trong tiếu thuyết Tous les hommes sont mortels/Mọi người đều chết). Từ chương Bjerkely, Hilde Møller Knag xuất hiện là một con người thực, còn Sofie chinh là nhân vật giả tưởng của quyển tiểu thuyết nhằm viết về lịch sử triết học. Sofie và Hilde - ai được hư cấu? Không một ai. Tiểu thuyết phá thể như Reflex and Bone Structure của Clarence Major đã dựng nhân vật, tác giả ở những vị thế nhị trùng, tác giả đang viết và ở trong quyển sách đang viết - ở Sofies verden Sofie và Hilde trao đổi vị trí cho nhau, người này đang đọc quyển tiểu thuyết có nhân vật là người kia
Cơ sở căn bản của quyển tiểu thuyết là Cơ đốc giáo từ chương mở đầu mang tên Lạc Viên và chương đóng với tiểu đề …chúng ta là cát bụi - song chương Spinoza từ điểm nhìn vĩnh cửu/sub specie aeternitatis rõ ràng là phiếm thần: có thể tưởng tượng đời sống của chính mình trong then khuôn vũ trụ …vì chỉ là một phần nhỏ nhoi của toàn thể đời sống của tự nhiên
Trong cái nhỏ nhoi ấy có những đấng cứu thế, như (Plotinus từng xem) Platon (trong dòng tư tưởng tuần hoàn của những triết gia hy lạp) mà văn minh châu Âu tùy thuộc vào hai nền văn hóa, một là Ấn-Âu từ bốn ngàn năm qua với Trời là Dyaus/Zeus/Jupiter/Iov/Tyr và những Thần là Asura/deva/daeva/dues/Aser/tivurr, một bên kia là văn hóa Do thái khởi đi từ bán đảo ả-rập, người do thái lang thang khỏi quê hương trên hai ngàn năm, mang theo một lịch sử và tôn giáo biệt căn với con đường Cơ đốc giáo, song cả ba Do thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo chia xẻ nền đất do thái (Qoran, Cựu ước viết bằng ngôn ngữ cùng họ) -
Văn hóa Ấn-Âu tin vào vòng tuần hoàn lịch sử, vào luân hồi, tái sinh. Alberto muốn chỉ ra cho Sofie thấy từ hơn hai ngàn năm trăm năm qua, người Ấn theo đuổi mục đích tối thượng là giải thoát khỏi vòng sinh tử; cũng hơn hai ngàn năm trăm năm sau Phật (xem đời sống như một tồn tục phi gián đoạn những quá trình tâm thân giữ con người trong tình trạng biến chuyển không ngừng), phân tích tinh thần con người, Hume nhìn ra như Phật là không có cái Tôi, bản ngã không thay đổi như nhiều nhà duy lý quan niệm (vì tin vào linh hồn bất tử của con người).
Tiểu thuyết lịch sử triết học của Gaarder đã manh nha tia trực quan về một lịch sử tư tưởng siêu quốc
Quán hội hữu những con người chết nhưng bất tử
Vittorio Hösle được đào tạo trong nền giáo dục triết học, nhân từ cảm hứng quyển tiểu thuyết nói trên của Jostein Gaarder, đã dựng ra nhân vật nữ Nora K. để viết dưới hình thức tiểu thuyết thư - một văn thể có truyền thống lâu đời:
Cả hai tiểu thuyết ở trong thời đại điện toán và trí hiểu nhân tạo - những nhân vật tranh luận với nhau về người máy/robot, về trí não có phải là máy điện toán tiên tiến?
Thư mở đầu tiểu thuyết Quán cà phê của những triết gia đã chết là thiệp cám ơn Vittorio đã gửi con khủng long bột làm quà Giáng sinh cho Nora (nhân cô thắc mắc làm sao ý niệm khủng long theo kiểu Platon biến mất cùng với những con cuối cùng của loài vật này?) và Nora thực sự đang bực tức về lối lý giải phụ nữ của Aristote (triết gia Hy lạp mà Hösle đánh giá rất cao) rồi tình cờ lang thang trên phố Rüttenscheid, Vittorio gặp một quán cà phê mang tên “Quán cà phê của những triết gia đã chết song trẻ mãi” khiến ông thích thú, tò mò bước vào và kinh ngạc là đầy khách, dầu toàn là nam giới. Ông ngồi xuống một bàn chỉ trơ trọi có một ông già - không còn bàn trống nào nữa - trông rất thân quen như những người khác trong quán. đó chính là Aristote; tất nhiên Vittorio sửng sốt, nhưng trong triết học mọi chuyện đều có thể xẩy ra. Không sao. Ông cũng nhận ra nhiều người khác, như ở bàn bi-da đằng kia, một người nhỏ con chắc chắn là Kant đang tranh biện lý chứng hữu thể luận với một giám mục trông khả kính mà ổng thường gọi là “Anselm thân mến”, trong khi một người trẻ coi vẻ rụt rè dội chiếc mũ cao đang giải thích với một người ăn bận bảnh bao nhìn chăm chăm xuống sàn, đề tài Chân lý và bước nhẩy vọt của đức Tin ngoài lý trí. Trong thư hồi âm này của Vittorio đề ngày 27 tháng Giêng 1994 ở Essen, Hösle kể lại cuộc nói chuyện với Aristote cho Nora, đề cập chuyện Nora bực tức về khái niệm phụ nữ của Aristote, việc những loài bị tiêu diệt là một lý chứng chống lại thuyết ý niệm Platon, Aristote nhận xét Nora đã gây ra một liên minh mới đang hình thành trong quán cà phê này, nơi mọi lý chứng hay ho được đánh giá rất cao. Aristote cũng muốn nhờ Hösle chuyển lại cho Nora ba điều: một, ông không phủ nhận phụ nữ có linh hồn, như nhiều người rêu rao, vì ông cho cây cỏ còn có hồn, huống hồ; hai, mọi người chúng ta đều là con cái của thời đại, phàm đã lớn lên trong một xã hội mà chế độ nô lệ được nhìn nhận, coi như tự nhiên, hay ở đó phụ nữ không được học hỏi hay quan tâm đến ý niệm khủng long, thì những quan điểm như vậy thường không tránh được; ba, ông muốn chỉ ra cho Hösle và Nora là họ cũng giữ những tư kiến có thể làm đỏ mặt vì xấu hổ trong mấy trăm năm - cho nên đừng quá khe khắt với một ông già Hy lạp như ông!
Vittorio còn kể trên đường ra, gặp một người nháy mắt với mình và bảo ông là nếu kể cho Nora, hỏi cô ta có nghĩ là đang mơ, vậy đâu là thực, là mộng?
Trong hồi âm của Nora, cô nghĩ mộng và thực là hai thế giới khác nhau: mộng là thế giới của tri tưởng và tư tưởng, từ đó có cái gì nghiền ngẫm tận sâu trong ta, còn thực là thế giới của những giác quan, cũng là những khoa học, lịch sử hay ngôn ngữ…
Ở quán cà phê của những triết gia trẻ mãi ấy, Vittorio đã gặp những Descartes,Kant, Augustin, Nietzsche, Hegel. Kierkegaard, Max Weber, Rousseau,Giambattista Vico, Al-Farabi, Fichte (chỉ kể một số tiêu biểu) v.v.. đến những hiền triết phương đông như Trang tử, Khổng tử, Lão tử và Nora từng gặp trên xe, trong công viên những Platon, Martin Buber v.v..
Thư từ trao đổi giữa Vittorio (Hưsle) và Nora (K.) thể hiện hai quan điểm triết học rõ ràng: một bên là tư tưởng riêng của Hösle (đã trình bày trong những tác phẩm của ông, ở đó lý giải phê phán các triết gia theo ý ông), một bên là cái nhìn của trẻ thơ (đại biểu là K. về một triết học) thuần túy [trong thư đề ngày 3 tháng Ba 1994: cô bé Nora thân thương thực ngây thơ nếu cô không biết tại sao trẻ thơ phải trả lời những câu hỏi triết học cơ bản. Và điều này đã trả lời câu hỏi của cô: trong triết học, đòi hỏi tính ngây thơ hơn bất kỳ điều gì khác. Dửng dưng với những gì người khác nghĩ, sẵn sàng hỏi ngay cả những câu hỏi cấm kỵ, một tin cậy là những đáp án đúng cũng đơn giản gây sửng sốt - mọi thứ đó thật quan trọng trong triết học, và về những mặt này, trẻ em ít có những cấm đoán như người lớn. Trẻ em thường ít tư kiến hơn những triết gia từng trải kinh nghiệm…Phải, triết học cần trẻ thơ.] Hãy nghe Nora nói với Max Weber: ông thật quá bi quan. Tại sao ông không tin vào con người? Họ được trao cho luân lý và niềm tin…Kỹ thuật cũng tốt chứ. Nó không hoàn toàn xấu đâu. Này nhé, nếu không có tàu thủy, xe lửa, máy bay ông không thể du lịch qua những xứ khác. Mà đôi khi ông phải muốn đi mhay việcgì quan trọng. Nếu không có kỹ thuật, khoa học không thể tiến bộ. Y khoa hẳn tụt hậu, những bệnh nan y như ung thư không thể chữa trị. Có thể chúng ta phải thay đổi xe, cháu muốn nói là đường rày đó. Để nó không dẫn xuống vực sâu.
Còn Hösle đặt vào miệng Wilhem Hegel và Søren Kierkegaard những tranh luận tay ba như:
(Vittorio:) Thưa ông Wilhem, như vậy Thượng đế và Tuyệt đối có liên hệ với nhau chứ?
(Hegel:) Tất nhiên, cả hai cùng một thứ; tôi thích dùng diễn ngữ 'Tuyệt đối' song nó cũng quy chiếu về điều mà những tín đồ có tri năng gọi là 'Thượng đế'. Thượng đế là nền tảng tột cùng, và nếu như đạo lý là tuyệt đối, nó chính là thánh thiện, một phần của Thượng đế. Người ta cũng có thể nói chính Thượng đế tuyệt đối là đạo lý
(Vittorio:) Vậy Thượng đế và trật tự đạo đức đi với nhau. Nhưng cho tôi biết, cái gì là đạo đức vì Thượng đế muốn, hay vì nó là đạo lý?
(Hegel:) Thượng đế có thể chỉ muốn cái gì là đạo lý, là tinh thần.
(Søren la lên từ phía ông ta:) Nhưng như thế thì đạo lý độc lập với ý chí của Thượng đế, vậy ra ông muốn tiêu diệt toàn năng của Thượng đế.
(Hegel:) Song nếu một cái gì tốt chỉ vì Thượng đế muốn thế, vậy Thượng đế có thể sai khiến cái gì đó khủng khiếp, và nó cũng tốt sao.
(Søren đáp trả:) Hãy thấy gì Ngài đã làm. Cứ nghĩ đến chuyện Abraham và Isaac đó. Có phải vô đạo đức khi hy sinh một đứa trẻ vô tội? Và đó là cái Ngài đã khiến Abraham làm!
(Vittorio kêu lên:) Ồ nếu Thượng đế khiến tôi phải hy sinh Nora, tôi không bao giờ làm đâu.
(Hegel:) Cũng vậy đó, hãy xem rốt cuộc Isaac có bị giết đâu, có thể là Thượng đế chỉ muốn thử lòng Abraham - và có thể ông ta qua được cuộc thử thách tốt hơn là khi nguyện:”Chúa ơi, mọi điều đều đúng, như ng Ngài thực không có thể muốn một đứa trẻ vô tội bị giết, như vậy con đã hiểu lầm Ngài”.
(Søren ngắt lời:) Không, đức tin ở ngoài lý trí. Lý trí thực tiễn có thể cấm hy sinh trẻ con, song đức tin biết là cái gì mâu thuẫn với lý trí có thể là chân thực hay ý Chúa.
(Hegel lập lại:) Đức tin không thể mâu thuẫn với lý trí. Có lẽ đức tin có nhữngthấu thị mà lý trí mù lòa, song nó không thể mâu thuẫn lý trí. Nếu không, chân lý có thể hai mặt, chân lý của lý và chân lý của tin, điều này phi lý.
(Søren nói nhỏ nhẹ:) Credo quia absurdum/tin vì phi lý.
Cuộc tranh biện tay ba cuối cùng xuất hiện Al-Farabi, triết gia Hồi giáo tự nghĩ có thể đồng hành rất tốt với những nhà Cơ đốc, Do thái và những nhà tôn giáo khác nữa, song ông nhận xét “với người nào trì chiết vào đức tin riêng của họ,tự đặt mình chống chân lý, thì khó nói chuyện với y”. Hösle chịu ảnh hưởng người thày là Apel, cho nên trước nhận xét của Hegel và Al-Farabi là “mỗi chủ thể tự đóng kín bản thân , không thể có thông giao với thế giới hay với tha nhân”, ông nghĩ có một điểm chắc chắn là người ta có thể hiểu nhau, kể cả đôi khi có ngộ nhận về nhau, song chúng ta hiểu ngay sau đó là chúng ta không hiểu nhau và có thể thử một cách tiếp cận khác.
Vào Giáng sinh 1994, Vittorio kể cuộc hội ngộ với Albertus Magnus và Lão tử .
(Lão tử:) Người phương tây các ông thường luôn luôn muốn tranh cãi những vấn đề! Mới đây thôi tôi thấy cảnh Chúa giáng sinh của qúy vị trước ban thờ, và tôi nghĩ về mối quan hệ giữa Đạo và hài đồng này. Rốt cuộc, tôi không rõ tôi là Lão tử đang nhìn hài đồng Giê-su, hay Giê-su đang mỉm cười với Lão tử.
(Albertus:) Vâng, chúng tôi có quan hệ khác với đời sống tích cực như ông, thưa Lão tử. Nếu ông chỉ cần biếtbao nhiêu là nhiệm vụ tổ chức trong trọng trách giám mục của tôi thôi! Chúng làm tôi không thể đi vào chiêm nghiệm, nhưng đó cũng là nhiệm vụ của chúng tôi để phục vụ công lý, và chúng tôi chỉ có thểlàm điều đó nếu chúng tôi hoạt động, xử lý và tổ chức.
(Lão tử cười mỉm đáp:) Mặt khác, tôi gắn bó với Vô Vi, nguyên lý là không làm gì hết. Đại nhân không làm gì hết, mà có hiệu quả, tỏa ra cái hòa hợp với Đạo, và như vậy không cần tổ chức gì hết.
(Albertus:) Tôi cũng thấy ảnh hưởng của nhân cách lớn tràn ngập quyền lực - đó là lý do chúng tôi ăn mừng ngày Giáng sinh.
(Lão tử:) Có thể các ông như vậy; song ông vĩnh viễn trẻ mãi, mặc dầu ông đã chết - không qua lâu như tôi, thực vậy, song dẫu sao cũng đã năm bẩy trăn năm. Tuy vậy, khi tôi đi ngang những con phố và cửa hàng thắp sáng lễ hội, quan sát người ta lũ lượt đi sắm quà tặng, tôi ngờ vực không biết có còn nhiều người cảm thấy ảnh hưởng của Chúa hài đồng không. Nếu người tây phương chỉ dùng những tài khéo léo tổ chức của mình để làm dịu nhu cầu - nhưng thường là họ không dùng tài để khai thác nhu cầu sao. Này ông Albertus, hỏi ông câu này nhé: các nhà thần học Cơ đốc các ông vẫn quyết liệt bảo vệ cái lý chứng là Cơ đốc thì cao hơn các tôn giáo khác.
(Albertus:) Phải, vì không như những tôn giáo khác, tôn giáo của chúng tôi xây dựng trên triết học Hy lạp. Tôn giáo của chúng tôi liên hệ đến logos ngay từ khởi đầu -Chúa Hài đồng là hiện thân của logos.
(Lão tử:) Có thể nhu vậy, song ông có thấy tình trạng hiện nay của châu Âu thực sự quyến rũ không?
(Albertus lắc đầu đáp:) Không, không, tôi thấy thực sự đáng ghê tởm. Chủ nghĩa duy vật này dẫn chúng tôi xa rời căn rễ Cơ đốc. Những bạn bè tôi ở quán cà phê đồng ý với trường phái duy sử nói với tôi là ngay cả giữa quan niệm thời trung cổ về Cơ đốc và Cơ đốc nguyên thủy, cái hố ngăn cách cũng rất lớn. Song hố ngăn cách giữa Cơ đốc nguyên thủy với thế giới hiện đại còn lớn lao hơn nhiều.
(Lão tử:) Rõ ràng rồi. Câu hỏi của tôi bây giờ là: làm sao mà nền văn hóa của các ông rất tự hào về tôn giáo, luôn luôn coi nó là đỉnh cao của phát triển con người, lại sản xuất ra một xã hội bị bọn vụ lợi và tiêu thụ hèn hạ thống trị? Chỉ ở phương Tây chủ nghĩa vô thần là hiện tượng quần chúng, còn ở xứ tôi, nó là kết quả nhập cảng của phương Tây. Làm sao một xã hội vô thần có thể phát triển trên nền tảng Cơ đốc vậy?
(Albertus thở dài:) Giá mà tôi có thể trả lời được câu hỏi của ông? Hiện giờ, tôi thấy là khi bắt đầu thời đại mới Cơ đốc giáo bành trướng khắp thế giới là kết quả của thực dân, chiến thắng dường như đã hoàn tất. Ngày nay tôi thường bất bỉnh khi thấy quan niệm văn hóa Cơ đốc Âu châu mà giới truyền thông đã nhồi nhét vào đầu mọi người. Hủy hoại môi sinh làm tôi bận tâm rất nhiều.
(Lão tử:) Vậy ra những người Cơ đốc các ông đã tách rời Thượng đế khỏi thiên nhiên quá rồi.
Vittorio Hösle có thể là một nhà triết học trẻ (sinh năm 1960) đã sớm có cái nhìn siêu quốc trong tư tưởng hiện đại.
Sau Hösle, có nhiều người bắt chước lối hư cấu gặp lại những danh nhân đã chết (như văn gia, thi sĩ v.v..). Song chính ông thành thật cho hay là trí tưởng của ông đẩy đưa ông tới chỗ nghĩ ra việc gặp gỡ những triết gia chết song còn trẻ mãi là cảm hứng từ coi phim Dead Poets Society/Hội thi sĩ quá cố do Peter Weir đạo diễn, thực hiện năm 1989, người viết truyện phim là Thomas Schulman. O captain! My captain! là câu thơ của Walt Whitman, nhà thơ Nguyễn Du của Mỹ. Henry David Thoreau, người nổi loạn như một Cao Bá Quát trong tác phẩm bất hủ Walden với những tư tưởng bất hủ như: Vũ trụ lớn hơn chúng ta nhìn/the Univers is wider than our views of it, hay: Tôi đi vào rừng vì tôi muốn sống tự do, chỉ đương đầu với những chuyện đời cơ bản…
Tự truyện của người gặp tiên/ngoại thế
Vào một đêm nửa vầng trăng cô độc trên vòm trời khi ngồi ngoài hiên căn nhà nhìn ra biển, tôi đang miên man tưởng đến câu chuyện của Hösle và Gaarder, sóng xô trên cát như những dòng thơ của Perse, bất ngờ ánh sáng êm dịu hiện ra trước mắt, màu sắc như chưa hề thấy tỏa nhập vào châu thân
Mơ hay tỉnh? Tôi tự hỏi
Không âm thanh, tiếng nói
Nhưng rõ ràng tôi đang trò chuyện với một
(đến đây, tôi không thể tìm kiếm ra từ nào chính xác) - vì đối tác không phải là con người - mà tôi có cất tiếng đâu
song cuộc đàm thoại của chúng tôi rõ ràng là thực
đối tác của tôi cho tôi hay (bạn hãy nhớ, chúng tôi không dùng bất kỳ ngôn ngữ nào, dù là tiếng Việt, tiếng quan thoại, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, hoặc mọi thứ tiếng dùng trong thông giao ở hội nghị Liên Hiệp Quốc hiện nay)
ông đến từ một Nơi Xa Xăm - dùng theo tiếng người là ở một thiên hà nào đó - nếu tính theo kiến thức khoa học của con người ta hiện tại , có thể là hàng triệu năm ánh sáng
không, đối tác của tôi hẳn nực cười vì cái số đo lường nhỏ nhoi như vậy
chỉ cho hay: ông Đặng, ông là người thứ ba trên trái đất bé tí xíu này mà tôi hiện thân nói chuyện đấy
hân hạnh quá, chứ hai vị khác là ai?
Platon và Dante Alighieri -
tôi nhớ ra rồi, vị đầu tiên sau khi gặp ngài (tôi cũng không rõ tại sao tôi gọi đối tác của tôi bằng cách xưng hô khách sáo đó) Platon đưa ra cái chuyện hang động, coi người trần chúng tôi như bọn tù đày trong ngục, như cái bóng nhìn thấy Ý sinh động là thực ở bên ngoài; Dante viết La Divina Commedia tả cảnh địa ngục khủng khiếp thật ra chỉ là chốn trần gian này; ngài ơi, ngài kỳ vọng ở tôi điều gì?
Không, ông Đặng ơi, sau khi gặp tôi, ông muốn làm gì tùy ông. Cái khó là đồng loại của ông có thức tỉnh là chuyện của họ. Platon há chẳng muốn mở mắt họ mà chẳng đặng; Dante hù dọa chuyện Inferno, có ai sợ?
Tôi biết, chuyện mấy nghìn năm nay, ai tỉnh ai say? Là chuyện xưa như trái đất của chúng tôi -
Song thưa ngài, tôi không thấy hình dạng ngài - để tôi nói ngài rõ, ngài không dị hợm như E.T. đám điện ảnh xuẩn động tưởng tượng, ngài không râu ria rậm rạp như mấy ông thánh nhân loại chúng tôiõ nghĩ ra, tôi chỉ thấy vừng sáng không xanh, không đỏ, không trắng, không đen (tôi cũng biết màu sắc chẳng qua do tri giác thấp kém chúng tôi thấy sao nói vậy), nếu tôi kể lại cho người ta nghe, thì tôi sẽ nói ngài nhang nhác như chân dung con người ta Picasso vẽ, song mờ mờ ảo ảo như tranh của Bacon, hình thù chẳng người chẳng ngợm, trừu tượng như của Kandinsky, nét kỷ hà như tranh Mondrian - đấy là cái dễ nhất để tả ngài cho chúng sinh rõ
Ngài từ đâu đến?
Ngài là nam hay nữ?
Ngài có hồn/xác, thân/tâm như tôi không?
Ngài có tên không? Có ngôn ngữ riêng không?
Ngài có tình dục không?
Ngài là quá khứ, hiện tại, hay tương lai?
Ngài có quê hương, tổ quốc, giống nòi, chủng tộc?
Ngài có cha mẹ, anh em, vợ con, bạn bè, dân tộc?
Ngài có ngôn ngữ, chữ viết để thông giao?
Ngài có tư tưởng, văn chương, khoa học?
Ngài có tuổi tác, học thức, tình dục, tư tưởng, cảm giác?
Đối tác của tôi đáp án, tôi nghĩ y không cười không nhăn nhó như đám chúng sinh quanh ta
Ông Đặng ơi, để tôi nhắc ông nghe một câu văn của ông nhé: thuở nhỏ, chàng hay tỉ mỉ quan sát những đoàn kiến leo tường, châu đầu vào nhau rồi lại tiếp tục bỏ đi không biết về hang ổ nào
Có bao giờ ông nghĩ đến, khi ông bay cao ra khỏi cái hành tinh nhỏ bé của ông, nhìn xuống, nhân quần của ông e còn li ti hơn đoàn kiến trong tuổi nhỏ - thế giới của các ông đó
Vậy thì tất cả những thắc mắc trong câu hỏi của ông không có đáp án
Ông không nhìn thấy tôi rõ, như người láng giềng của ông, tôi không nói bất kỳ ngôn ngữ nhân thế để thông giao với ông, vì tư tưởng, suy luận, ngôn ngữ không khu biệt nơi tôi, tư và ngữ đồng nhất - hay thực sự không có
Sở dĩ ông hiểu ngay tôi vì vô ngôn, vô động,vô ý. vô cảm - để tôi nói cụ thể theo cảnh giới của ông nhé - ông trò chuyện với tôi được vì nghĩ của ông trước khi thành lời đã là một, nên không cần cất tiếng, tôi đã rõ ông muốn nói gì, và phản cảm của tôi - ý và ngữ - là một
Bây giờ thì ông biết/hiểu/đọc/thấy rồi nhé
Tôi đến từ một nơi nhân loại các ông chưa có khả năng tiếp cận - nhớ nhé, thể xác con người chỉ có khoảng năm trăm giờ sống sót nếu trần trụi trong khối thái dương hệ, huống hồ ra khỏi, phi thuyền của nhân loại các ông đã bay tới đâu?
các ông thấy quanh, nào là sao Hỏa, sao Mộc, cung Hằng không có cái gọi là sống, nên các ông nghĩ là chúa tể trong vũ trụ
tôi phản ứng yếu ớt: không, ngài ơi,như ngài đã nhắc đến đoạn văn tôi viết, tôi nghĩ ngài coi nhân loại chúng tôi chắc còn li ti hơn đoàn kiến
đúng vậy đó, ông Đặng; tôi từ muôn một đến nói chuyện với ông, cũng vì tò mò như ông, xem tương lai, chủ đích của quần thể nhân loại kiến đi về đâu.
Vậy thì ngài đâu có là Thượng đế của chúng tôi. Ngài đâu biết thế giới chúng tôi đi về đâu?
Ông Đặng ơi, đừng nóng.Thể xác ông nằm trong hạn chế vật lý nên tôi không thể đưa ông đi ra khỏi thái dương hệ này, mở tầm kiến thức thấy cái Bao La
Song ngài có thể đưa tôi về quá khứ chứ?
Tôi chắc chắn rõ đối tác của tôi như cười ha hả vì ông Đặng ơi, ở thời điểm trần thế các ông, nếu mở được tầm nhìn miên viễn, các ông sẽ nhìn thấy chuyện tương lai - như mấy người điện ảnh các ông tưởng tượng back to the future, không phải như một nhà văn hư tưởng chuyện ba người lính nhẩy dù lâm nạn, ngược về quá khứ thấy cảnh tượng lịch sử (như vua Quang Trung đại phá quân Thanh v. v…).
Đúng vậy, các nhà khoa học của chúng tôi đã dần dà khám phá cái vũ trụ đơn điện tử, vật chất/phản-vật chất, những phương trình như QEDi nhằm miêu tả phản vật chất đi tới trong thời gian, không có thông tin nào có thể gửi lùi lại trong thời gian. Đời sống trên trái Đất chúng tôi mới có khoảng 4 tỉ năm nay, mọi loài đều từ một cơ sinh đơn bào nguyên thủy do những ngẫu biến mà ra, chung gốc tổ LUCA ii 
Nhân loại chúng tôi mới phát hiện có trên triệu năm nay, song biết bao nền văn minh đã chôn vùi trong cảnh dâu biển, bao nhiêu cuộc chiến tàn sát lẫn nhau, Vũ trụ này xem ra bất ổn, đến một lúc cả Mặt trời kia và đời sống trên trái Đất cũng đến chỗ cáo chung…nhưng đời Sống này có thể kết thúc sớm hơn với vũ khí hạt nhân (nhờ vào tiến bộ siêu đẳng của khoa học, từ khám phá ra nguyên tử, đơn tử, phân tử, hạt cơ bản, helium 1 và 2, lý thuyết tương đối, cơ học lượng tử, lý luận siêu băngiii trong vật lý v.v..) đang trên đà phát triển cao tốc ở mọi xứ sở, từ nơi nghèo đói nhất như bắc Cao ly đến những vùng tranh nhau một khoảnh đất như Trung Đông mù ám…
Này ông Đặng, thế giới của ông đầy phức tạp: có tình dục (vì nam/nữ), có cạnh tranh (vì mạnh/yếu), có sở hữu (vì giàu/ nghèo) có thù nghịch (vì chủng tộc/tôn giáo), có sinh tồn (vì sống/chết), có phân hóa (vì trí thức/ngu muội)
Tại sao vậy?
Nếu có nhiều thế giới; con người ý thức nhiều thế giới; nếu nhận ra khởi nguyên của thời gian và phi thời gian; nếu biết không và có phi khu biệt
Tại sao vậy?
Những nan giải?
Nhân loại chúng tôi có nhiều cái thiếu song lại có nhiều cái thừa do phân hóa giữa lời và ý, giữa ngôn ngữ và tư tưởng, giữa chữ nghĩa và tiếng nói, giữa lịch sử và tiền lịch sử, giữa lý trí và phi lý, giữa một và nhiều…
Tất cả nằm trong cái ông gọi là hành trạng triết học, phải không? Nói cho tôi vận hành của nó đi, biết đâu tôi có thể chỉ con đường ra ở chỗ No Exit
(còn nữa)
_____________________________________________________
Chú Thích
i Quantum electrodynamics
ii Last Universal Common Ancestor
iii Superstring Theory
|
|