Khởi Thảo

LỊCH SỬ TRIẾT HỌC DƯỚI LĂNG KÍNH SIÊU QUỐC

Đặng Phùng Quân
 
 
 

(tiếp theo)

Lịch sử triết học tỷ giảo - không, đúng ra từ lăng kính siêu quốc (có nghĩa là không phân biệt Đông/Tây, địa chí, thời đại) - viết ra cho đối tác mà tôi đặt tên là tiên (vì như đã giới thiệu ở trên, đến từ Nơi Xa Xăm), ngoại thế (vì ngoài vũ trụ (?) chúng ta), và sau nữa là chủ yếu cho những thế hệ mai sau - có thể chưa ra đời

Nhập

Tất yếu của lịch sử triết học
Lịch sử triết học không như lịch sử của những khoa học khác, có nghĩa là thiết yếu cho mọi người và không thể khách quan tuyệt đối, hiểu theo nghĩa người viết sử có thể hoàn toàn đứng ngoài, quan sát sự vật và chụp, nhận, nắm bắt sự vật như thể nó là, xác định như thể chân lý tuyệt đối. Ngay khái niệm chân lý tuyệt đối cũng đã là vấn đề tranh luận. Thiết yếu vì nhận thức, lãnh hội lịch sử triết học đã là một thao tác triết lý, nghĩa là ở trên một quan điểm nhất định, và không ai có thể nói là không cần biết, vì bất kỳ vấn đề triết lý nào cũng đã ở trong nguồn lịch sử. Một khái niệm tưởng chừng như lần thứ nhất được phát hiện thực ra đã có ở đó chỉ làm mới từ một cái nhìn mới.

Phê phán lịch sử triết học
Triết học gắn liền với lịch sử triết học. Ngay từ cổ đại, khi triết học tồn tại dưới hình thức thành văn, việc nhắc lại hay dẫn chứng quan niệm, tư tưởng của những người trước đã là một hình thức viết lịch sử triết học, những công trình của Aristote, Sextus Empiricus, Diogene Laërtius v.v...hay những công trình của những triết gia Ả rập phục hồi triết học Aristote thời Trung cổ.
Khi Hegel viết bộ Lịch sử triết học, ông đã dành hai phần cho triết học Ấn và Trung hoa. Tuy sai lầm trong nhận thức về những nền triết học này, cái nhìn của ông có một giá trị tiến bộ so với nhiều nhà viết lịch sử triết học sau ông đã bỏ quên mảng lớn tư tưởng trong sinh hoạt văn hóa, văn minh của nhân loại.
Khiếm khuyết đó có nhiều lý do: có thể kể hai nguyên nhân, một là tên gọi triết học và hai là định nghĩa về triết học. Từ khác biệt đó dẫn đến tư kiến phân chia hai nguồn tư tưởng Đông và Tây cho đến nay vẫn còn tồn đọng trong não trạng của nhiều người.
Platon trong thiên Phaidros/Phèdre đã chỉ ra một điều cho chàng thanh niên là đã không nhìn sự vật đúng hay sai, mà chỉ để ý đến xem người nói là ai và đến từ xứ sở nào, chính cái tư kiến ấy khiến con người sống trong kỳ thị khu biệt cục bộ.
Nhiều bộ lịch sử triết học, như của Ueberweg, Windelband, Bréhier, Alfred Weber, hay riêng về chủ nghĩa duy vật của Lange chỉ tập trung vào tư tưởng tiến hóa từ triết học Hy lạp qua Kinh viện và hiện đại, chỉ ra tư tưởng định hướng một chiều. Khiếm khuyết ấy có thể do quan niệm tư biệt về triết học, hoặc do không đủ khả năng tri thức chuyên biệt về những vùng tư tưởng khác, như vùng Đông Á, Phi, Mỹ La tinh.
Để khắc phục nhược điểm đó, ngày nay lịch sử triết học cần được nghiên cứu trên những cơ bản như: xác định một triết học thế giới/World Philosophy, xây dựng một công trình tỷ giảo, cấu trúc một viễn tượng siêu quốc, vượt lên khỏi những hoang tưởng về ngọn nguồn trung tâm của một nền văn minh, văn hóa cá biệt làm bá chủ dựa vào những giả đề hàm hồ, phi cơ sở.
Bộ Lịch sử triết học của Wilhem Windelband (1848-1915) khẳng định là quá trình trong đó nhân loại Âu châu đã hiện thể trong quan niệm khoa học những thế giới quan và phán đoán về đời sống. Ông nhận xét Hegel đã đưa lịch sử triết học thành một khoa học độc lập khi phát hiện ra điểm cơ bản của lịch sử này không phải như những người đi trước là tập hợp những tư kiến của những học giả khác nhau, hay khai triển mở rộng chủ đề này, mà Hegel theo một quá trình giới hạn trong đó những “phạm trù” lý trí đạt được những ý thức phân biệt và hình thái của những quan niệm, tuy nhiên sai lầm của Hegel theo ông là đã xây dựng lịch sử triết học dưới kiềm chế của hệ thống triết học, cho nên thường cưỡng chế sự kiện lịch sử . Song Windelband cũng chỉ ra cái sai lầm đối nghịch là phủ nhận lý trí của lịch sử dẫn tới việc xét những học thuyết triết học chỉ như những tư tưởng ngẫu nhiên cá thể.
Friedrich Ueberweg (1826-1871) trong Lịch sử triết học giản yếu quan niệm những nguồn cung ứng tri thức lịch sử triết học đáng tin cậy nhất là những công trình triết học có hình thái và toàn vẹn tự nguyên ủy, hay những công trình chính thống không thể nghi hoặc. Theo ông, triết học như một khoa học không thể bắt nguồn từ những dân tộc phương Bắc tuy xuất sắc về sức mạnh và can trường song không có văn hóa, cũng không từ nhửng dân tộc phương Đông tuy có những yếu tố văn hóa cao hơn, song chỉ bằng lòng với những điều này trong tinh thần thụ động, do đó chỉ có thể bắt nguồn từ người Hy lạp đã hài hòa phối hợp được những đặc tính của cả hai. Chính vì vậy, Ueberweg coi những nguồn triết học Trung hoa, Ấn độ, Ba tư, Ai cập thiếu minh chứng khoa học, thường trộn lẫn những khái niệm tôn giáo (ngay một số những mệnh đề hình học chẳng hạn tuy được phát hiện qua kinh nghiệm của người Ai cập, song khai phá những chứng cớ và sáng tạo hệ thống hình học là công trình của người Hy lạp). Quan niệm này thật ra phản ảnh tư tưởng chung của những nhà triết sử thế kỷ 19; chẳng hạn Lange (1828-1875) với bộ Lịch sử chủ nghĩa duy vật cho toàn bộ lịch sử tiên quyết mang ý nghĩa toàn bộ khoa học mở rộng ra là toàn bộ văn hóa chung.
Trong phần dẫn nhập bộ Lịch sử triết học thời Cổ đại và Trung cổ, Emile Bréhier (1876-1952) nhận xét khó giải quyết minh bạch vấn đề biên giới trong lịch sử triết học, nhất là vấn đề nguồn gốc; cho nên không thể xác định ảnh hưởng lẫn nhau giữa Hy lạp và vùng Viễn Đông song lịch sử triết học không có quyền quên tư tưởng Viễn Đông.

Dưới lăng kính siêu quốc
Ý niệm về một lịch sử phổ quát với mục tiêu siêu quốc [1] thực ra đã là tiêu đề của một bài viết Kant cho in trên Berlinische Monatsschrift vào năm 1784. Ý thức lịch sử nơi Kant thể hiện việc khám phá những cứu cánh phổ quát trong tự nhiên hòa hợp với hành động đạo lý kết thành xu hướng siêu quốc, tiếp theo với nghiên cứu Về sử dụng những nguyên lý mục đích luận trong triết học, 1788 [2] như ông xác định: Một đạo lý như thể mục đích luận thực tiễn thuần túy nhằm thực hiện những cứu cánh của nó trong vũ trụ, không thể coi thường khả hữu của những cứu cánh này trong vũ trụ này, liên quan đến những nguyên nhân cứu cánh đã cho cũng như liên quan đến sự phù hợp giữa nguyên nhân tột cùng của vũ trụ với toàn bộ mọi cứu cánh nhận được như thể hiệu quả của nó. Trong chín mệnh đề Kant nêu ra, có nguyên lý như thiên nhiên không làm điều gì vô ích hay ngông cuồng trong việc sử dụng những phương tiện nhằm đạt tới cứu cánh [3] ở mệnh đề thứ ba hay xác quyết ở mệnh đề cuối cùng về một lịch sử thế giới phổ quát/allgemeine Weltgeschichte. Phải hiểu ý nghĩa của lịch sử phổ quát như thế nào, đó chính là tranh biện trong bài viết của Kant. Ngay từ mở đầu khi nói đến con người theo đuổi những mục đích, không phải thuần túy do bản năng như mọi loài thú, cũng không hành động cho phù hợp với bất kỳ quy hoạch toàn diện, tiền định như Leibniz, Wolff nghĩ, cho nên có phải lịch sử nhân loại không do quy luật chỉ đạo không thể khả hữu? Để tránh rơi vào những nghịch lý của tấn kịch thế giới lớn ở đó, bên cạnh những hành động cá nhân tỏ ra vẻ minh trí, đại thể diễn ra mê cuồng, phù phiếm ấu trĩ, thường có những ranh mãnh, phá hoại trẻ thơ, khiến chúng ta không biết tư kiến nào đáng tự hào, cho nên con đường duy nhất cho nhà triết học là khai phá mục đích trong thiên nhiên đằng sau dòng sự biến vô nghĩa của con người và quyết định xem sau mọi việc làm sao có thể định hình một lịch sử trong ngôn ngữ của một dự kiến tự nhiên nhất định cho loài người vốn hành động không có một dự kiến của chính mình.[4]
Kant cũng từng đối chiếu hai mặt của thế giới: niềm tin vì phi lý/credo quia absurdum và khán trường thế giới/theatrum mundi diễn ra sự đối lập giữa tất yếu và tự do của ý chí, niềm tin và lý trí, thường nghiệm và trí tuệ, vật lý và siêu hình - ở Phê bình lý trí thuần túy, 1781 ông đã giải quyết nghịch lý này khi phân biệt ý chí có quyền tự quyết và hậu quả của những hành động nơi con người trong trật tự hiện tượng ra sao để nhìn ra những hành động này cũng tuân thủ những quy luật phổ quát của tự nhiên. Chính ở góc nhìn này, Dilthey khẳng định Kant đã đề xuất vấn đề cơ bản của triết học cho mọi thời đại - đó là thế giới cho chúng ta dưới hình thái nào, vì chúng ta chỉ thấy nó hiện hữu nhờ vào những trực quan và ý niệm? [5]
Con người phân biệt với mọi loài nhờ vào một khả năng đặc thù: lý trí, tự phát triển theo thời gian, nghĩa là kế tục không ngừng của nhiều thế hệ, qua nhiều thử thách, học hỏi, vượt khỏi giới hạn cơ chế thân phận sinh vật, hàm ngụ tự do. Bài viết của Kant nằm trong cùng một mạch văn với những Khai sáng là gì? Định hướng trong tư duy là gì? Công bố một kết cuộc sắp tới của Hiệp nghị hòa bình vĩnh cứu trong triết học [6] chủ yếu nhằm tranh luận về cơ sở thực tiễn của tư duy, nhấn mạnh đến việc lý trí phải được tự do trong sử dụng công cộng là một quyền không thể bị hạn chế; ý nghĩa sử dụng tự do tư tưởng ở đây có tính công khai, thao tác của lý trí phải được cởi mở và được diễn đạt trước quần chúng. Trong bài viết Trở lại vấn đề Khai sáng của Kant, tôi chỉ ra điều này đo lường sự tiến bộ hay lạc hậu của một xã hội, một đất nước, thật ra chỉ thể hiện trong một nước có dân chủ và tự do, không hề thấy ở một xứ sở chuyên chính, toàn trị [7]- ngày nay trên thế giới, những chế độ man rợ ở Myanmar, Trung Cộng, Bắc Triều tiên, Cao miên, Việt nam v.v… vẫn ngang nhiên cấm đoán, bắt bớ đối lập chính trị, tư tưởng.
Quan điểm siêu quốc có thể là mục tiêu phổ quát cho vấn đề: Viết lịch sử triết học như thế nào? Đồng thời cũng có nghĩa là ngày nay, vào đầu thế kỷ 21, lịch sử triết học mang lại lợi ích gì cho con người, không riêng nhà triết học?
Kant không giảng dạy đặc biệt về lịch sử triết học hay viết về lịch sử triết học ngoài những nhận xét, tranh biện với những triết học trước và đương thời với triết học phê bình của ông. Nhưng Kant đã viết: Một lịch sử của triết học khả hữu không phải trên lịch sử hay theo kinh nghiệm, nhưng khả hữu một cách thuần lý, nghĩa là tiên nghiệm. Bởi vì nó xây dựng những sự kiện của lý trí không phải vay mượn nơi sử ký, nhưng rút ra từ bản chất của lý trí con người theo danh nghĩa khảo cổ học triết lý. Điều đó cho phép các tư tưởng gia giữa mọi người được lý luận về nguồn gốc, mục đích và cứu cánh các sự vật trong thế giới.[8]
Trong Chân dung triết gia, 1973 tôi đã nói đến quan điểm về lịch sử triết học của Hegel, Dilthey và Merleau-Ponty. Trong dự thảo đề cương cho hội thảo quốc tế mở đầu thế kỷ 21 chung quanh vấn đề lịch sử của triết học, những ý niệm, những khái niệm chỉ ra những quan hệ giữa triết học và những khoa sử, văn hoá, ý thức hệ vẫn là những tranh luận vô tận. Hiển nhiên có một điều, lịch sử triết học không chỉ là một phần của lịch sử văn hóa, vì như vậy không còn triết học. Nhà viết lịch sử triết học không làm công việc dân tộc học, hủy triệt tính đặc thù của một triết học - như tôi đã chỉ ra trong Cách ngôn tư tưởng 7: nhà triết học không đứng trong hàng ngũ những người làm khoa học nhân văn, xã hội - mà là người khai phá ra những khoa học này [9].
Như vậy, đâu là tiêu chuẩn để dựng một lịch sử triết học?
Khảo sát lịch sử triết học/historiographie philosophique không giống như khảo sát lịch sử những môn học khác vì nghiên cứu lịch sử triết học là nghiên cứu chính triết học và những nhân vật xuất hiện trên con đường tư tưởng đó. Lịch sử triết học hàm ngụ ý nghĩa luận lýhiện sinh.
Luận lý, vì những triết học dầu chống hệ thống cũng vẫn có tính hệ thống và hiện sinh, vì những hành trạng triết học của cuộc đời thực tiễn tư tưởng.
Trong bài giảng mở đầu tại Đại học Heidelberg vào ngày 28 tháng Mười 1816, Hegel nói ngay chủ đề của những bài giảng này là lịch sử triết học [10]. Ông lưu tâm đến vị thế của triết học, kinh qua những biến cố của thời cuộc, những lợi ích tầm thường nhỏ nhoi của đời sống đã làm triết học tàn tạ và rơi vào quên lãng của ký ức và lý niệm. Ông nhắn nhủ, điều kiện tiên khởi của triết học là đảm lược của chân lý và sức mạnh của tinh thần. Từ khởi sự Dẫn nhập, Hegel đã viết:
“Lịch sử triết học là một hành lang những tinh thần cao quý, với lòng can đảm về lý trí đã thâm nhập vào bản chất sự vật, con người và thượng đế, những tinh thần cao quý đó đã khám phá chiều sâu của những bản chất ấy và xây dựng một kho tàng tri thức tối thượng cho chúng ta.”
Lịch sử triết học theo ông không là một tập hợp những ý kiến nào đó, nhưng có một liên lạc thiết yếu, nối kết những khởi điểm đầu tiên khai triển phong phú những tư tưởng. Triết học đa diện, nhưng chỉ có một khái niệm thật sự có thể lĩnh hội những công trình của các nhà triết học đã tạo dựng trong ý nghĩa của khái niệm này. Biên soạn lịch sử triết học thì nhiều, song những cuốn lịch sử triết họcấy không nắm vững được cương lĩnh của vấn đề, đó là lý trí của vấn đề triết lý. Hegel châm biếm: Ta có thể so sánh tác giả của những cuốn lịch sử triết học đó với những con thú nghe tất cả những âm thanh của một nhạcđiệu mà giác quan đã không lãnh hội được một điều duy nhất, đó là sự hòa hợp những âm điệu đó.
Triết học là sự tiến hoá của tư tưởng hoạt động không ngừng và không có gì ngăn cản hoạt động đó được. Triết học như vậy là một hệ thống hiểu theo nghĩa là một toàn thể và chỉ ra toàn thể khởi sự từ những gì đơn giản nhất để cụ thể hóa trong khi tiến triển. Triết học như vậy - triết học sau cùng của Hegel - chứa đựng tất cả những gì đã hoàn thành công trình của cả ngàn năm, nó là thành quả của tất cả những gì đi trước Sự phát triển của tinh thần, nhìn dưới khía cạnh lịch sử, chính là lịch sử triết học. Triết học trình bày sự tiến hóa của tư tưởng trong tự nội và hướng về tự nội, không kể đến những sự biến bất ngờ. Lịch sử triết học chính là tiến hóa này trong thời gian, do đó lịch sử này đồng nhất với hệ thống triết học. Quan niệm này theo Hegel là quan niệm duy nhất xứng đáng về lịch sử triết học.
Triết học là một hệ thống trong sự phát triển cũng như lịch sử triết học. Những triết học khác nhau tiếp diễn trong lịch sử có nghĩa là sự tiếp diễn những tất định của khái niệm ý tưởng về mặt luận lý. Cho nên nghiên cứu lịch sử triết học là nghiên cứu chính triết học, phải xét đến quan hệ giữa đối tượng với thời gian và những cá tính đã thành. Công việc khảo sát này loại trừ lịch sử ngoại tại về thời đại mà chỉ xét đến yếu tố chung của dân tộc và thời gian, với những điều kiện tổng quát, nghĩa là quan hệ giữa lịch sử triết học và hoàn cảnh lịch sử. Hình thái nhất định của triết học tương ứng với hình thái nhất định của dân tộc mà triết học xuất hiện, như thể chế, chính quyền, phong tục, đời sống xã hội, khả năng, tập quán, tiện nghi của dân tộc, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo, những điều kiện về quân sự, cũng như suy đồi của quốc gia trong đó nguyên tắc tất định này thẩm giá, đến sự hình thành và tiến triển của những quốc gia mới ngõ hầu xác định nguồn gốc của nguyên tắc tối thượng ở cấp độ tất định của ý thức chính tinh thần trong toàn bộ gia bội tinh thần (của một dân tộc, như cơ cấu tổ chức, kiến trúc xã hội v.v..). Triết học là hình thái của những mặt đa biệt này, là khái niệm của một hình thành toàn diện, là ý thức, là bản chất trong toàn bộ, là tinh thần của hiện sinh và tư duy.
Nếu Hegel đã nhìn thấy tính phong phú của lịch sử triết học thì chính ông lại có tham vọng đặt hệ thống triết học của ông lên trên lịch sử, báo hiệu sự cáo chung của lịch sử và triết học. Quan niệm một hệ thống toàn diện đã có tham vọng hướng dẫn công việc triết lý tốt đẹp hơn và giản lược những tư tưởng sinh động, những tinh thần cao qúy thể nhập bằng đời người vào bảo tàng viện. Nhưng thực ra chính nhờ những triết thuyết khác mà ta biết được ý nghĩa triết học của Hegel. Hệ thống của Hegel bắt đầu từ vận động của những mâu thuẫn: khẳng định xuất hiện thành hủy thể và hủy thể chứng nhận là khẳng định, tất cả những điều đó bắt đầu từ Zenon, trong thiên Sophistes của Platon, nơi hoài nghi của Descartes. Hegel cũng biết điều đó, khi nói: Lịch sử triết học là tất cả ở hiện tại. Điều đó có nghĩa là triết gia không những chỉ có thực trong những cái họ đã thấy mà ngay cả những cái họ không thấy. Những tư tưởng quá khứ không thể chỉ tồn tại trong tinh thần của chúng như những thời khoảng của một hệ thống tột cùng. Những tư tưởng đó tồn tại với những chân lý và những ngông cuồng như những công trình toàn diện của những đầu óc mẫn tiệp hay chúng không bao giờ tồn tại. Ngay cả Hegel, tinh thần muốn ôm lấy tuyệt đối, sống trong hiện tại và cho chúng ta suy tư không phải chỉ qua những chiều sâu tư tưởng của Hegel, nhưng còn qua những tham vọng và xảo thuật của ông. Sự tồn tại của triết học xây dựng trên hiện hữu và tư duy, không phải chỉ ở những vấn đề mà ở cách thế đặt vấn đề, về những ẩn ngữ ngày một phức tạp hơn đặt ra cho con người.
Vào cuối đời, Wilhem Dilthey (1833-1911) đã đưa ra một khái niệm tổng quát về triết học trong Bản chất của triết học [11]: có quy luật cấu trúc mang tính lịch sử, tức là luật phát sinh/Bildungsgesetz tác động hình thành của mọi hệ thống triết học quan hệ qua lại để tiến đến một thống nhất nội tại. Để quyết định xem trong điều kiện nào có thể nói đến một bản chất triết học, phải đi từ những định nghĩa khác nhau về sự kiện lịch sử của chính triết học: tìm hiểu một định nghĩa triết học khả dĩ có thể chấp nhận những danh pháp đa biệt và những quan niệm khác nhau do các triết gia tạo ra, một cách thiết yếu dẫn từ quan điểm hệ thống về quan điểm lịch sử. Các triết gia, trong quan điểm lịch sử của Dilthey, hướng trực tiếp về những ẩn ngữ của thế giới và đời sống. Tinh thần nhân loại trải qua nhiều thái độ có thể chấp nhận được trước những ẩn ngữ này. Dưới góc nhìn lịch sử, tác phẩm của một triết học đặc thù là sự thực hiện một khả năng trong những điều kiện cho sẵn, mỗi triết học thực hiện một giai đoạn cơ bản của triết học và trong giới hạn này đã hướng về một toàn thể có mục đích, mỗi triết học cá biệt như một bộ phận của tổng thể duy nhất hàm ngụ chân lý toàn diện. Tuy vậy, trong quá trình tiến triển ý thức của con người, có những hệ thống triết học như của Platon, Aristote, Descartes, Spinoza, Leibniz, Locke, Hume, Kant, Fichte, Hegel, Comte chẳng hạn gây ấn tượng sâu sắc hơn những hệ thống triết học khác. Dầu đối tượng hay phương pháp của những hệ thống này ra sao, chúng cũng được xây dựng trên toàn bộ phạm vi của ý thức kinh nghiệm, thường gặp trong đời sống, kinh nghiệm, những khoa học thực nghiệm và chúng tìm cách giải quyết những vấn đề nêu ra. Mặt khác, đặc tính chung của triết học là yêu cầu một tri thức có giá trị phổ quát, gắn liền với xu hướng ngược về nền tảng của triết học.
Trong góc nhìn toàn diện lịch sử, người ta có thể nhận ra các triết gia trươc hết đều hướng về ẩn ngữ của vũ trụ và đời sống, ở đó nẩy sinh ra những quan niệm triết lý, những vị thế triết lý gắn liền với yêu cầu nền tảng này. Mọi công trình triết lý đều phát sinh từ quá trình liên tục này tác động nơi mỗi triết gia đi tớí chiếm cứ một vị trí mới, ngay cả khi ông thất vọng là chưa giải đáp được ẩn ngữ lớn kia.
Tất cả những vị trí của ý thức triết lý cũng như những định nghĩa khác nhau về triết học là gì hợp thành một toàn bộ lịch sử:
Tinh thần minh bạch và ý thức nơi người Hy lạp thời cổ đại chẳng hạn đã giải phóng triết học khỏi tôn giáo và những biểu tượng tiên tri trong thi ca nghệ thuật, để tạo thành Philosophia/φιλοσοφία.
Qua cái nhìn lịch sử về bản chất triết học, người ta nhận thấy mỗi định nghĩa về triết học chỉ khai mở một góc cạnh, diễn ngữ cho một quan niệm triết lý ở một thời khoảng nhất định trong quá trình tiến hoá của triết học, chấp nhận những hiện tượng này, không phải những hiện tượng kia có phẩm chất triết học. Nhận xét từ những công trình của Locke, của Leibniz, của Berkeley chẳng hạn, Dilthey nhận xét triết học gắn liền mật thiết với vấn đề mở rộng một thế giới quan triết lý/philosophische Weltanschauung có tính phổ biến, vượt lên khỏi thế giới quan tôn giáo và nghệ thuật, nó là quyền lực nhằm tác động biến đổi đời sống 12]. Nhân cách, hoàn cảnh, quốc tịch, thời đại ghi dấu nơi mội triết gia vô số những sắc thái của thế giới quan triết lý. Dilthey khẳng định áp dụng ý thức lịch sử vào việc nghiên cứu triết học và lịch sử triết học. Nỗ lực triết lý của ông nhằm chứng tỏ có những tương quan của triết học với kinh nghiệm sống/Erlebnis. Đời sống theo ông là dây liên lạc mật thiết của những chức vụ tâm linh trong khuôn khổ nhân cách [13]. Kinh nghiệm sống là nhận thức tiến triển của đời sống. Chính yếu tố cá nhân thường thấy nơi những triết gia lớn xây dựng trên kinh nghiệm sống này.
Quan điểm tương đối luận chủ sử của Dilthey đối lập với quan điểm triết học như một hệ thống của Hegel. Maurice Merleau-Ponty (1908-1961) đưa ra một cái nhìn khác nhân khi trực tiếp hoặc gián tiếp bàn cãi về diễn tiến của lịch sử triết học. Ông khởi đầu bằng nhận xét: chỉ có một lịch sử về những triết học, không có một lịch sử triết học. Không có một triết học chứa đựng tất cả những triết học. Triết học toàn diện, ở những thời khoảng nhất định, là ở nơi mỗi triết học. Có thể nói: tâm điểm của nó ở khắp nơi và chu vi của nó không ở chỗ nào.
Vấn đề then chốt nhất cần phải được thảo luận là vấn đề Đông/Tây trong lịch sử triết học. Đông và Tây có gặp nhau qua cùng một danh xưng triết học không? Theo Merleau-Ponty, có sự khác biệt giữa hai nền triết học. Người ta có cảm tưởng là triết gia Trung hoa không đồng ý với triết gia phương Tây về ý niệm hiểu và biết, về nguồn gốc tri thức khách thể. Công việc tư tưởng của nhà triết học phương Đông là dẫn khởi, không phân biệt cái bao dung và cái bị bao dung, ý nghĩa và cái được chỉ thị ý nghĩa. Dường như chỉ có những ngạn ngữ tiêu biểu cho khái niệm. Hegel và những người theo Hegel coi tư tưởng Đông phương như vẫn tiếp cận xa vời với khái niệm. Husserl cũng đi vào con đường thiên kiến như thế khi nhận xét Ấn độ, Trung hoa là những mô thức kinh nghiệm mang tính dân tộc học. Tuy vậy, Husserl đã sáng suốt nhận thức vấn đề triết học là mở rộng khái niệm mà không tiêu diệt nó. Tư tưởng Tây phương có những điểm hay như nỗ lực nhận thức, khái niệm chính xác. Đó là một văn hóa tự phê phán trong minh bạch, khúc chiết, tự ý thức cũng như ý thức các nền văn hóa khác. Ở điểm này, phương Tây vẫn duy trì hệ thống đối chiếu phát kiến ra những phương tiện lý luận và thực tiễn về nhận thức, tiến tới con đường chân lý. Mục tiêu chiếm hữu tự tại và chân lý là giấc mơ của những nền văn hóa khác, mà chính phương Tây cũng chưa hoàn tất. Nhưng mối tương giao lịch sử giữa Hy lạp và Đông phương, hay trong tư tưởng Đông phương cũng có những đặc tính như ngụy biện, hoài nghi, biện chứng, luận lý chứng tỏ không có một ranh giới địa chí giữa triết học và phi triết học. Triết học “thuần túy” hay “tuyệt đối” nhân danh Hegel đã loại trừ Đông phương thì chính nó đã loại trừ một phần lớn những cái hay, cái đẹp trong quá khứ Tây phương.
Giữa Đông và Tây, mối quan hệ không phải là phi triết học với triết học [14]. Tinh thần nhân loại thống nhất ở trong những tương giao ngoại biên của mỗi nền văn hóa với những nền văn hóa khác, trong tiếng gọi bên này thức tỉnh bên kia. Tôi gọi đó là tinh thần siêu quốc.
Ý nghĩa siêu quốc thật sự đã có một quá trình lâu dài trong lịch sử triết học, mà lịch sử triết học như Nicolai Hartmann chỉ ra rất quan trọng trong việc đi vào triết học [15] vì tương phản với những khoa học khác, luôn làm mới và xem thế giới như một tổng thể. Trong bộ Lịch sử triết học khái quát giản yếu [16] Dilthey dùng từ “universalgeschichtlichen Darstellungen” để trình bày quá trình tư tưởng qua ba thế hệ trên trái đất này là những dân tộc phương Đông, Địa trung hải thời cổ và hiện đại. Bộ Die grossen Philosophen của Karl Jaspers hay Kleine Weltgeschichte der Philosophie của Hans Joachim Störig lấy đề từ qua ý tưởng của Jaspers: Ảnh hưởng của tư tưởng triết học trong thế giới ngày nay chỉ khả hữu nếu như tiếp cận được đa số con người…Do đó, thiết yếu, đây là thời điểm chiêm ngưỡng của toàn nhân loại có thể thông giao những điều cơ bản, khả dĩ minh bạch mà không hy sinh mất đi cái bản chất sâu sắc [17].
Ngày nay, vô số những công trình về triết học thế giới/World Philosophy nhằm đáp ứng nhu cầu ấy và bổ sung cho những khiếm khuyết về tri thức, tư tưởng ở những vùng khác nhau cho nhà triết học cũng như người thường. Những công trình ấy chỉ mới xuất bản trong mấy thập niên nay chứng tỏ sự trì trệ trong thông giao học thuật [18].
Song ý nghĩa của tinh thần siêu quốc như thế nào? Đó là vấn đề.
Trước tiên là cái nguồn/nguyên ủy ẩn dấu/hidden source: một nhà triết học Mỹ S.M. Melamed từ năm 1933 đã viết một tác phẩm nhan đề Spinoza and Buddha, Visions of a dead God xem Spinoza như một ngôi sao cô độc trên vòm trời triết học, phân biệt hình tượng Spinoza như một triết gia Tây phương tuy là một khuôn mặt sáng chói, song ông muốn chỉ ra vị tổ tinh thần của Spinoza trong hình tượng thế giới ở đây không là Descartes, nhưng là một nhà tôn giáo: Phật, học thuyết của Spinoza như một chấn động cuối của Phật giáo trong thế giới phương Tây. Nhà triết học Đức Reinhard May trong Ex oriente lux: Heideggers Werk unter ostasiatischem Einfluß/Ánh sáng từ phương Đông: tác phẩm của Heidegger chịu ảnh hưởng Đông Á xuất bản năm 1989 chỉ ra nguồn ẩn Đông phương như Thiền và Đạo giáo đã tác động lên tư tưởng Heidegger, do tiếp cận với những học giả Nhật, cũng như qua những bản dịch Lão Trang.
Tính siêu quốc còn đặc thị trong giao ngộ phê phán, như Fred R. Dallmayr rất tán đồng khái niệm “bổ sung/complementarity” theo Erhart Kästner trong việc nghiên cứu tư tưởng của một triết gia qua giao ngộ bổ sung của những triết gia khác. Cho nên đọc Nietzsche chẳng hạn qua Heidegger, qua Descartes đọc Heidegger không chỉ qua hủy tạo của Derrida mà qua lý luận phê bình của Adorno. Nhà triết học Ấn J.L. Mehta dùng một từ khác “Inter-cultural Understanding” với ý nghĩa Understanding hiểu theo tiếng Đức Verstehen/lĩnh hội để nghiên cứu hiện tượng tôn giáo tỉ giảo cũng là một thể loại lĩnh hội, trong giao ngộ văn hóa [19]. Cho nên việc đọc một tác giả, một triết học ngày nay do những tiếp cận giao ngộ qua lý giải thông diễn đã làm thay đổi tình hình nhận thức; người ta nói đến một Hegel sau Derrida chẳng hạn, có nghĩa là công trình của Derrida trong lý giải Hegel đã là một sự biến tạo thành khúc quanh trong việc đọc/hiểu Hegel. Những sự biến tương tự như khi nói đến sau Heidegger, sau Foucault v.v..
Tần Gia Ý/Julia Ching trong The religious thought of Chu Hsi/tư tưởng tôn giáo của Chu Hy, 2000 nói đến việc tiếp cận tư tưởng phương Đông của những nhà truyền giáo vào thế kỷ 17 và 18 chia làm hai loại: những người ngưỡng mộ văn hóa Trung hoa khá tích cực trong việc giới thiệu triết học phương Đông, đặc biệt là Khổng giáo với người Âu châu và một loại người phê phán như Nicholas Longobardi, Antoine de Ste Marie xem đất Trung hoa như lãnh địa của những người vô thần và bất khả tri. Hai tác phẩm của Dòng Tên là Confucius Sinarum Philosophus/Triết gia Trung hoa Khổng tử, 1687 của Phillipe Couplet và Nouveaux mémoires sur l'état présent de la Chine/Bút ký mới về tình hình Trung hoa ngày nay, 1696 của L. Lecomte theo Tần Gia Ý như thắp lên ngọn lửa tri tưởng cho giới trí thức châu Âu và đổ thêm dầu vào những tranh luận thần học. Bút ký của Lecomte ca ngợi giáo hỗ đạo giáo của Trung hoa còn làm giới Đại học Sorbonne lên án vì đụng đến nghi hoặc về tính thống nhất của mặc khải Cơ đốc.
Trong chương 3 về triết học Đông/Tây của Cơ sở tư tưởng thời quá độ, tôi đã nhắc đến những công trình của David A. Dilworth về triết học tỉ giảo, của F. Jullien về tư tưởng trung hoa, của Philip Ivanhoe, Heiner Roetz về đạo lý trung hoa, của Jacynthe Tremblay về triết học Nishida Kitarô v.v.., những tác động qua lại trong giao ngộ tư tưởng giữa những nhà triết học Nhật, Ấn với triết học phương Tây.
Trong cuộc giao ngộ tương tranh này, điểm đặc sắc là phân chia những thời kỳ trục mà Karl Jaspers quan niệm, sẽ nói đến sau. Nét đặc sắc siêu quốc khác trong tỉ giảo triết học là hủy tạo ranh giới không/thời gian. Nhiều công trình tham luận vào lãnh vực này. Chẳng hạn tuyển tập Essays on Skepticism, Relativism, and Ethics in the Zhuangzi [20] Paul Kjellberg đối chiếu Trang tử, Tuân tử với Sextus Empiricus, Lisa Raphals luận về sách lược hoài nghi trong sách Trang tử/Nam hoa kinh của Trang với thiên Theaetetus của Platon, David Loy luận về Chân phi chân giữa Trang và Long thọ/Nàgàrjuna, Mark Berkson tranh cãi về vấn đề ngôn ngữ có những tương đồng để mệnh danh Trang là nhà hủy tạo của thế kỷ IV tr. Tây lịch hay Derrida là Đạo gia của thế kỷ 20? Tuyển tập Nietzsche and Asian Thought [21] bàn về quan tâm đến tư tưởng Nietzsche trong mấy thập niên qua trên phạm vi toàn cầu. Triết gia Nhật Nishitani Keiji nhận xét về Nietzsche: Không phải quan điểm hư vô luận của ông về Phật giáo nhưng chính những ý tưởng như amor fati và quan niệm theo Dionysos như một nỗ lực vượt chủ nghĩa hư vô khiến Nietzsche đến rất gần với Phật giáo, và đặc biệt là Đại thừa. Những công trình như Selflessness in Sartre's Existentialism and Early Buddhism [22] của triết gia Thái Prayoon Mererk, Derrida and Indian Philosophy, 1990 của Harold Coward, Authentic human destiny: the paths of Shankara and Heidegger, 1998 của Vensus A. George chỉ ra xu hướng đối chiếu đẩy khoảng cách thời gian rất xa thu hẹp lại, những hội luận triết học trên tầm mức quốc tế, đàm thoại trên truyền hình Tây nam tại Baden-Baden giữa Heidegger và tỳ kheo Maha Mani đến từ Bangkok v.v.. chỉ ra thông giao ngoài phạm vi địa chí, đặt lại viễn tưởng lịch sử triết học trên một khung không gian mới.
(còn nữa)

_________________________________________
Chú Thích
[1] Idee zu einer allgemeinen Geschichte in weltbürgerlicher Absicht
[2] Über den Gebrauch teleologischer Principien in der Philosophie
[3] Die Natur thut nämlich nicht überflüssig und ist im Gebrauche der Mittel zu ihren Zwecken nicht verschwenderisch.
[4] Aus welcher von Geschưpfen, die ohne eigenen Plan verfahren, dennoch eine Geschichte nach einem bestimmten Plane der Natur möglich sei.
[5] Nguyên văn: Denn mir scheint das Grundproblem der Philosophie von Kant für alle Zeiten festgestellt zu sein. Es ist das höchste und allgemeinste aller menschlichen Forschung: welchergestalt ist die Welt, die für uns doch nur in unseren Anschauungen und Vorstellungen da ist, uns gegeben?
[6] Was ist Aufklärung? Was heißt: Sich im Denken orientiren? Verkündigung des nahen Abschlusses eines Tractats zum ewigen Frieden in der Philosophie.
[7] In trong Tẩu khúc văn chương/triết lý, 2004.
[8] Dẫn Kant trong Những tiến triển của siêu hình học ở Đức từ Leibniz và Wolff. Xem: Chân dung Triết gia, 1973 (ĐPQ).
[9] Xem Cơ sở tư tưởng thời quá độ, 2007 - ch. 7 (ĐPQ).
[10] Vorlesungen über die Geschichte der Philosophie. Phần dẫn nhập nói đến ở đây là Einleitung in die Geschichte der Philosophie, hrgs. Johanes Hoffmeister, có thể tham chiếu bản dịch tiếng Anh Hegel's Introduction to the Lectures on the History of Philosophy, 1985 của T.M. Knox và A.V. Miller, bản dịch tiếng Pháp Leçons sur l'histoire de la philosophie: Introduction, bibliographie, philosophie orientale, 2004 của Gilles Marmasse.
[11] Das Wesen der Philosophie, lần đầu in trong bộ Systematische Philosophie: Die Kultur der Gegenwart, 1907, in lại trong Die Geistige Welt, GS V.
[12] Một lý luận về thế giới quan/Weltanschauunglehre trong dạng bản thảo của Dilthey đã in trong Gesammelte Schriften, VIII - Luận về triết học của triết học/Abhandlungen zur Philosophie der Philosophie.
[13] Leben ist die innere Beziehung der psychischen Leistungen im Zusammenhang der Person.
[14] Xem chương 2 và chương 3 trong Cơ sở tư tưởng thời quá độ (ĐPQ).
[15] Trong Einführung in die Philosophie, Hartmann xác định: Die Beschäftigung mit der Philosophiegeschichte ist auch in einer Einleitung erforderlich; denn die Philosophie muß sich im Gegensatz zu anderen Wissenschaften immer wieder erneut mit ihrer Geschichte auseinandersetzen, in der es versucht worden ist, die Welt als Ganzes zu schauen.
[16] Grundriss der allgemeinen Geschichte der Philosophie, H-G. Gadamer xuất bản và bổ sung năm 1949.
[17] Karl Jaspers trong Die Aufgabe der Philosophie in der Gegenwart/Nhiệm vụ của triết học ngày nay, 1953.
[18] Có thể kể vài công trình tiêu biểu như: những tham luận tại hội nghị triết học quốc tế do Raymond Klibansky biên soạn, La philosophie contemporaine, I-IV, 1968-1971 La Nuova Italia Editrice x.b.; John R. Burr biên tập: Handbook of World Philosophy, 1980; Robert C. Solomon và Kathleen M. Higgins biên tập: From Africa to Zen, 1993; Eliot Deutsch và Ron Bontekoe biên tập: A Companion to World Philosophies, 1997; Raymond Klibansky và David Pears biên tập: La philosophie en Europe, 1993.
[19] Xem: Fred R. Dallmayr, Critical Encounters, 1987; J.L. Mehta, India and the West, 1985.
[20] Những tiếu luận về thuyết hoài nghi, thuyết tương đối và Đạo lý trong Trang tử, 1996 Paul Kjellberg và Philip J. Ivanhoe biên tập.
[21] Nietzsche và tư tưởng châu Á, 1991 do Graham Parkes biên tập.
[22] Vô ngã trong thuyết hiện sinh của Sartre và Phật giáo nguyên thủy, 1988.